Chùa Ba Vàng có tên chữ là Bảo Quang Tự. Theo từ điển Hán Việt: “Bảo” có nghĩa là vật quý hay bảo bối. “Quang” có nghĩa là ánh sáng. “Bảo Quang” là ánh sáng quý báu. Bảo Quang Tự là chùa có ánh sáng quý.
Ngôi chùa tọa lạc trên núi Thành Đẳng, thuộc xã Thượng Mộ Công, Bí Giàng, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên; nay thuộc địa phận tổ 17B, khu 5 phường Quang Trung, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Núi Thành Đẳng bắt nguồn từ dãy núi Yên Tử, thế núi đương chạy theo hướng Bắc – Nam, nhưng khi về đến Uông Bí chuyển hướng Đông – Tây và hạ thành tam cấp: Đỉnh 550m, hạ đoạn 340m và 200m (so với mặt nước biển). Ngôi chùa được xây dựng tại hạ đoạn cấp 3 (200m). Thành Đẳng Sơn, tên nôm là Ba Vàng. Theo từ điển Hán Việt: “Thành” có nghĩa là thành tựu, thành đạt; “Đẳng” có nghĩa là vô thượng Chính đẳng chính giác. “Thành Đẳng” có nghĩa là thành Phật.
Căn cứ vào khảo cổ khai quật được từ lòng đất tại nền chùa những viên ngói đất nung hình lòng máng màu phớt hồng, kích thước 30x15cm. Mũi ngói giống mũi của chiếc hài. Những viên gạch đất nung lát nền có kích thước 40x40cm. Toàn bộ viên gạch được trang trí một bông hoa bốn cánh (một loại hoa văn đời Trần). Tất cả các viên ngói, viên gạch, mảnh sành tìm thấy đều mang nét văn hóa đời Trần. Chứng tỏ vào đời Trần, nơi đây đã từng tồn tại một ngôi chùa, nhưng không rõ lý lịch cụ thể về Sư tổ và ngôi chùa.
Cuộc nội chiến Nam – Bắc triều, Trịnh – Nguyễn phân tranh khiến nhân dân khủng hoảng niềm tin với nhà nước phong kiến, họ khao khát đón nhận trở lại ánh từ quang Phật giáo. Nhưng nhà cầm quyền phong kiến đã đề cao đạo Lão, đạo Khổng, ít chú ý đến đạo Phật. Chính lúc này, Đại Thiền sư Tuệ Bích đã xây dựng nên Bảo Quang Tự (1706) như thắp sáng niềm tin, nối lại dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử sau 300 năm gián đoạn. Song do thời gian và các cuộc chiến tranh tàn phá, ngôi chùa đã lùi vào dĩ vãng, chỉ còn lại rừng cây bao phủ.
Năm 1987, một người dân địa phương đã phát hiện ra những phế tích còn lại của ngôi chùa. Các nhà nghiên cứu, khảo cổ đã vào cuộc và thu thập được những hiện vật lịch sử có giá trị như: Cây hương đá (thiên đài trụ) được tạc bằng đá nguyên khối. Cây hương hình chữ nhật với kích thước cao 1m45, rộng 0.29m, dày 0.25m. Trên đỉnh cây hương là hình bát sen; Bia đá được làm vào thời Lê Dụ Tông (1706); kích thước 0.70m, rộng 0.45m, dày 0.14m dựng trên đế rùa cao 0.40m, dày 0.94m, rộng 0.70m.
Sau khi xác định đây là ngôi chùa mang dấu ấn lịch sử đời Trần, Thị ủy, UBND, HĐND thị xã Uông Bí thể theo nguyện vọng của nhân dân (1988) đã cho phép trùng tu lại bằng gỗ. Sau 5 năm (1993), ngôi chùa bị xuống cấp nặng nề. Ban tôn tạo đã trùng tu lại bằng gạch ngói, xi măng. Với diện tích 55m2 gồm ba gian tiền đường, cửa vòm, một gian tự điện; hai bên cửa giữa đắp nổi câu đối bằng chữ Hán:
“Thành Đẳng Sơn thắng cảnh vạn đại lưu danh
Bảo Quang Tự thiền môn thiên thu hương hỏa”
Chính giữa tiền đường treo bảo cái bằng vải. Bên trái tiền đường (ngoại hiên) treo một quả chuông nặng 20kg. Ban thờ chính hướng Nam ghé Tây gồm 4 cấp: Cấp cao nhất 2m20, cấp thấp nhất 1m: Cấp 1 thờ Tam Thế Phật; Cấp 2 thờ Di Đà Tam Tôn; Cấp 3 thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu; Cấp 4 thờ tòa Cửu long.
Nhà Mẫu kề cạnh Thượng Điện theo hướng Nam, diện tích 8.32m2 (nhà cấp 4); Miếu Sơn Thần 11m65; Giếng Thần sâu 2.50m, đường kính 1.78m, mức nước 1m. Các công trình khác: nhà ở, trai đường lợp bằng ngói xi măng, xung quanh bao bằng cót ép rộng khoản 20m2. Tổng diện tích công trình: 94.97m2. Đây là lần trùng tu thứ 3. Tuy nhiên, do chưa có sư Trụ trì nên Bảo Quang Tự chỉ dừng lại: đường lên chùa là lối mòn rậm rạp, điện thắp sáng và nước sinh hoạt đều không có. Tất cả các công trình nhà cấp bốn qua 14 năm đã bị dột nát và hư hỏng.
Là ngôi chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử của tỉnh Quảng Ninh, là truyền thừa của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lại có diện tích đất 123.81ha, là khu sinh thái sơn thủy hữu tình có “rồng chầu, hổ phục”, chẳng lẽ lại để Bảo Quang Tự trở thành phế tích? Đó là sự trăn trở của chính quyền, mặt trận, nhân nhân Uông Bí.
Năm 2007, Đại đức Thích Trúc Thái Minh – nguyên là trưởng ban Tri khách Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử đã về trụ trì chùa Ba Vàng. Đại đức cùng các đệ tử, du khách thập phương đóng góp công sức tiến hành trùng tu ngôi chùa lần thứ tư với quy mô hiện đại và được công nhận kỷ lục là ngôi chùa có tòa chính điện lớn nhất Việt Nam.