Đó là chia sẻ của Luật sư Nguyễn Văn Tuấn - Giám đốc Hãng luật TGS (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) với báo Kinh tế & Đô thị về vấn đề tuân thủ quy tắc xuất xứ của DN trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế sâu rộng.
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn - Giám đốc Hãng luật TGS (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) |
Lỗ hổng trong quản lý
Mới đây, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (C03) vừa có kết luận điều tra vụ Asanzo. Kết luận của C03 nêu rõ: “Chưa có căn cứ xác định việc hưởng lợi của Asanzo trong việc bán hàng hóa xuất xứ "Trung Quốc" đội lốt hàng hóa có xuất xứ "Việt Nam" tại thị trường Việt Nam. Do đó, chưa có căn cứ xác định Công ty Asanzo có hành vi lừa dối khách hàng trong việc bán các sản phẩm hàng hóa mang nhãn hiệu Asanzo”. Quan điểm của ông về kết luận này?
- Theo tôi, kết luận nêu trên là phù hợp nếu xét theo góc độ pháp luật hiện hành. Bởi, Nghị định 31/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa đã có quy định rõ về tiêu chí xuất xứ để xác định nhãn mác đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, nhưng chưa có đối với hàng hóa lưu thông trong thị trường nội địa.
Đối chiếu với các quy định hiện hành, Asanzo không sai trong ghi nhãn sản phẩm. Nhưng không thể không đặt câu hỏi về việc nhiều DN không muốn ghi trên nhãn thông tin về xuất xứ linh kiện, nhất là linh kiện Trung Quốc. Do tâm lý người tiêu dùng Việt Nam lâu nay không ưa chuộng hàng hóa xuất xứ Trung Quốc, và bởi không ghi rõ xuất xứ linh kiện cũng không sai quy định nên DN cố tình lờ đi. Đây là kẽ hở phải được xem xét lại và cân nhắc bổ sung quy định ghi xuất xứ linh kiện để người tiêu dùng lựa chọn.
Phải chăng cơ quan quản lý nhà nước chỉ quan tâm đến vấn đề hàng xuất khẩu để được hưởng ưu đãi thuế quan từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), còn quy định về chứng nhận xuất xứ đối với hàng hóa sản xuất, tiêu thụ trong nước vẫn bỏ ngỏ?
- Nếu không có quy định rõ ràng về nhãn hàng hóa, có thể xảy ra các trường hợp đưa hàng hóa, linh kiện được sản xuất ở quốc gia khác về Việt Nam lắp ráp và dán nhãn hàng Việt để hưởng lợi khi xuất khẩu. "Nếu một sản phẩm 100% linh kiện sản xuất ở nước ngoài, Việt Nam chỉ lắp ráp thì không được coi là "Made in Vietnam".
Theo tôi, để thúc đẩy năng lực sản xuất trong nước và bảo đảm đúng ý nghĩa của hàng Việt thì sản phẩm được coi là "Made in Vietnam" phải được sản xuất bởi DN Việt, có ít nhất 40% linh kiện được sản xuất trong nước. Với các nhãn "Sản xuất tại Việt Nam", "chế tạo tại Việt Nam"... cũng cần nghiên cứu bổ sung quy định chặt chẽ hơn để tránh bị trục lợi. Nếu không điều chỉnh thì vi phạm trong sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghệ nói chung sẽ khó xác định, bản thân các cơ quan quản lý cũng rất khó xử lý.
Quy định dán nhãn “made in Vietnam” phải chặt chẽ, bài bản
Sau hơn 1 năm Bộ Công Thương công bố dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam, vẫn có nhiều ý kiến cho rằng quy định còn chung chung, bộc lộ nhiều bất cập. Ông đánh giá như thế nào về tác động của dự thảo Thông tư quy định (khi chính thức áp dụng) đối với các DN?
- Về bản chất, dự thảo thông tư quy định về tiêu chí nhãn mác "made in Vietnam" không khác nhiều Nghị định 31/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa. Nếu áp dụng vào thực tiễn, thông tư mới vẫn sẽ bộc lộ những mặt hạn chế.
Việc xác định xuất xứ không phải yêu cầu bắt buộc đối với DN và luật cũng cho phép có những tình huống xuất xứ không xác định. Tuy nhiên, với quy định về nhãn dán, DN buộc phải xác định nguồn gốc hàng hóa. Tình huống đặt ra là nếu đạt đủ tiêu chí về quy định xuất xứ của thông tư, hàng hóa sẽ được ghi "made in Vietnam", nhưng nếu không đáp ứng yêu cầu, hàng hóa sẽ ghi sản xuất ở đâu?
Dự thảo Thông tư vẫn chưa quy định chặt chẽ, rõ ràng về các tiêu chí cho việc xác định hàng hóa thế nào là "made in Vietnam". Đơn cử, Điều 8 Chương III Thông tư quy định về hàng hóa có xuất xứ thuần túy chỉ nói về các hàng hóa đã có mặt ở Việt Nam, nuôi trồng, đánh bắt, chiết xuất… từ Việt Nam. Song, quy định không nhắc tới trường hợp sản phẩm được lên ý tưởng, thiết kế bởi người Việt, DN Việt nhưng các linh kiện phải lấy từ các nước khác nhập 100% thì có được ghi xuất xứ Việt Nam không? Hay tại Điều 10 Chương III Thông tư quy định các sản phẩm gia công, chế biến đơn giản, hàng hóa không có xuất xứ Việt Nam, nếu chỉ trải qua một hoặc kết hợp nhiều công đoạn thì không được coi là hàng hóa của Việt Nam. Song, quy định cũng không nhắc tới trường hợp này thì sẽ ghi xuất xứ hàng hóa từ đâu?
Trong trường hợp Việt Nam đã đặt ra quy định về dán nhãn “made in Vietnam”, DN đã đáp ứng được, song hàng hóa vẫn có thể kém chất lượng vì xuất xứ không điều chỉnh được chất lượng. Liệu điều này có dẫn đến việc cả xuất xứ cũng như thương hiệu sản phẩm, thương hiệu quốc gia bị xâm hại không, thưa ông?
- Xuất xứ hàng hóa từ quốc gia nào và chất lượng hàng hóa vốn không có sự liên quan mật thiết đến nhau; nhưng yếu tố chất lượng khoa học công nghệ, trình độ sản xuất, chiến lược truyền thông quảng bá sản phẩm và tiêu thụ hàng hóa… là những mắt xích gắn liền hai khái niệm này lại với nhau. Tuy nhiên, việc đảm bảo chất lượng theo đúng tiêu chuẩn Quốc gia thì không phải là nhà sản xuất trong nước nào cũng có thể làm được. Do đó, để đảm bảo được thương hiệu quốc gia, thì cần phải đảm bảo được các yếu tố nêu trên dựa vào cơ sở, thước đo là tiêu chuẩn chất lượng kỹ thuật - chất lượng Quốc gia do Nhà nước ban hành.
Cần nâng cao khả năng sản xuất hàng hóa của các nhà sản xuất cũng như nâng cao tiêu chuẩn cùng với kiểm soát nghiêm ngặt chất lượng hàng hóa không chỉ đối với hàng hóa xuất khẩu mà hàng hóa sử dụng, tiêu dùng phục vụ nhu cầu trong nước. Như vậy mới có thể đảm bảo được thương hiệu quốc gia. Thực tế, với nước ta có trình độ sản xuất còn ở mức trung bình thì đây là bài toán khó giải, cần phải có chiến lược phát triển lâu dài.
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và những DN chân chính
Vậy theo ông, cơ quan quản lý nhà nước cần thưc hiện giải pháp gì để loại bỏ triệt để các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ, song vẫn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và những DN chân chính?
- Tôi cho rằng, trước hết cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến việc xác định xuất xứ hàng hóa dựa trên thông lệ, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia nhưng vẫn cần phải có sự phù hợp với tình hình sản xuất trong nước nhằm hạn chế, khắc phục những kẽ hở của pháp luật để không bị các đối tượng lợi dụng để chuộc lợi, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Đồng thời, cần phải xây dựng ngay các chế tài xử phạt nghiêm khắc với các hành vi vi phạm đủ để tạo tính răn đe. Thêm vào đó, các cơ quan chức năng phải đẩy mạnh công tác thanh - kiểm tra chất lượng, xuất xứ hàng hóa của các DN sản xuất, điều này không chỉ hạn chế được tình trạng vi phạm, gian lận mà còn là sự thúc đẩy cho sự phát triển của chất lượng hàng hóa mang xuất xứ Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Trở lại câu chuyện của Asanzo. Nghi vấn lừa dối người tiêu dùng cùng với khoảng thời gian chờ đợi kết luận của cơ quan điều tra đã khiến Asanzo bị thiệt hại không nhỏ. Trong khi ở Việt Nam hiện nay, không ít DN có mô hình kinh doanh tương tự Asanzo. Ông có lời khuyên nào cho các DN?
- Với các DN sản xuất trong nước hiện nay, nếu không có sự thay đổi thì tương lai sẽ phải chịu những rủi ro pháp lý nghiêm trọng bởi lẽ dự thảo Thông tư quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa là sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam sẽ sớm được đưa vào thực tế. Các cơ quan chức năng sẽ kiểm soát chặt chẽ hơn và người tiêu dùng cũng dần trở nên khó tính hơn, thông thái hơn. Điều mà các DN cần hướng tới hiện nay đó là sự phát triển bền vững, lâu dài. Để làm được điều đó chỉ có cách là tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và tuân thủ các quy định của pháp luật.
Xin cảm ơn ông!