Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế Thủ đô

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một khối kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN dự định sẽ được thành lập vào cuối năm 2015.

Định hướng và một số giải pháp phát triển kinh tế Thủ đô nhằm góp phần cùng cả nước tích cực tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN giai đoạn đến năm 2020
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một khối kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN dự định sẽ được thành lập vào cuối năm 2015. Cộng đồng Kinh tế ASEAN hướng tới thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong "Tầm nhìn ASEAN 2020", nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế - xã hội được giảm bớt vào năm 2020. Là Thủ đô, trung tâm kinh tế lớn, việc nhận diện những thành tựu, hạn chế, cơ hội và thách thức, đề xuất định hướng và các giải pháp góp phần cùng cả nước tham gia tích cực (AEC) có ý nghĩa và tầm quan trọng thiết thực.
1. Tổng quan thành tựu và hạn chế phát triển kinh tế Thủ đô - đánh giá từ góc độ hội nhập khu vực và quốc tế.

1.1. Những thành tựu chủ yếu:

Phát huy tích cực vai trò là trung tâm kinh tế lớn thứ 2 của cả nước, động lực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc Bộ, những năm qua, trong điều kiện kinh tế thế giới, khu vực đối mặt với nhiều khó khăn do tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế Thủ đô tiếp tục có bước phát triển khá. Tổng sản phẩm trên địa bàn có mức tăng bình quân 5 năm 2011-2015 dự kiến tăng 9,23%, gấp 1,58 lần mức tăng bình quân chung của cả nước. Quy mô GRDP năm 2015 theo giá hiện hành đạt khoảng 27,6 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 3.660 USD, gấp 1,8 lần so với năm 2010.

Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: Đến nay, cơ cấu kinh tế Thủ đô là: dịch vụ 53%, công nghiệp – xây dựng 41,7% và nông nghiệp 5,3%. Tỷ trọng CN, DV chiếm 94,7% trong GDP (%). Đang hướng tới hình thành cơ cấu kinh tế mới hiện đại gắn với hội nhập, chất lượng cao hơn, trong đó dịch vụ, công nghiệp chiếm vị trí chủ đạo, phát triển các lĩnh vực và thành phần cơ bản của kinh tế tri thức (công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…).

Ngành dịch vụ có mức tăng trưởng cao, bình quân 5 năm, giá trị gia tăng dự kiến tăng 9,25%. Các ngành dịch vụ chất lượng cao và trình độ cao có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng chung của cả ngành. Du lịch được đẩy mạnh phát triển. Hà Nội là điểm du lịch  khá hấp dẫn và rẻ nhất thế giới. Năm 2014, Hà Nội được tổ chức TripAdvisor bình chọn đứng thứ 8 trong 10 thành phố thu hút khách du lịch hàng đầu thế giới; xếp thứ 2 trong danh sách 25 điểm đến hấp dẫn các du khách nhất.

Ngành công nghiệp - xây dựng lấy lại đà tăng trưởng và tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, giá trị gia tăng bình quân 5 năm tăng 9%. Phát triển có chọn lọc 5 nhóm ngành chủ lực: điện - điện tử - thông tin; cơ - kim khí; dệt may; chế biến thực phẩm; vật liệu mới. Một số ngành có giá trị gia tăng cao được ưu tiên phát triển mạnh như công nghiệp điện - điện tử - thông tin (hiện chiếm trên 10% trong cơ cấu GDP công nghiệp). Tốc độ tăng trưởng trung bình ngành công nghiệp CNTT đạt gần 28%. Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp được đầu tư phát triển mạnh, một số khu công nghệ cao  đang triển khai xây dựng. Giá trị sản phẩm công nghệ cao trong tổng GDP (%) tăng khá nhanh, đến cuối năm 2015 dự kiến đạt trên 40%/GDP.

Sản xuất nông nghiệp được tập trung chỉ đạo và đạt kết quả khá, giá trị gia tăng bình quân tăng 2,4%/năm, giá trị sản xuất đạt trung bình 231 triệu đồng/ha đất canh tác. Nông nghiệp được phát triển theo hướng sinh thái, từng bước ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao. Hình thành và mở rộng một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung có giá trị kinh tế cao; xuất hiện nhiều cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa, hoa, cây ăn quả chất lượng cao, giá trị sản xuất lớn. Nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao đã xây dựng được thương hiệu uy tín; bước đầu hình thành một số chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.

Các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển. Kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 43,6%; kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng khoảng 38,9%; kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm tỷ trọng khoảng 16,5%.

Chương trình hội nhập kinh tế quốc tế được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô từng bước được cải thiện. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được gần 1.080 dự án, với tổng số vốn đăng ký gần 2,9 tỷ USD. Hà Nội là một trong số các địa phương dẫn đầu trong thu hút nguồn lực FDI, ODA. Đã và đang khẳng định là một trung tâm du lịch lớn của cả nước, có sức hấp dẫn và tiềm năng phát triển trong khu vực phát triển du lịch. Xuất khẩu được đẩy mạnh (CNH hướng ngoại), tốc độ tăng xuất khẩu giai đoạn 2011 – 2015 đạt trung bình  trên 8,1%; Độ mở của nền kinh tế (xuất khẩu/GDP, %) đạt 220/100.

Việc hợp tác, liên kết phát triển kinh tế vùng được quan tâm, gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy thế mạnh ở từng địa phương. Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng khu vực ngoại thành, kết nối hạ tầng giữa Hà Nội và các địa phương trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Liên kết kinh tế Vùng, đặc biệt là liên kết phát triển du lịch Vùng đồng bằng sông Hồng với Thủ đô đạt kết quả tích cực. Hà Nội thực hiện tốt vai trò là trung tâm tài chính - ngân hàng, dịch vụ chất lượng cao của khu vực phía Bắc và cả nước.

1.2. Những hạn chế, khó khăn, thách thức.

- CNH, HĐH trên địa bàn tuy có sự chuyển biến tích cực song chưa đạt được yêu cầu theo đúng tiềm năng, lợi thế, chưa tạo được sự đột phá về chất cần thiết trên các mặt chủ yếu: quan hệ sản xuất và quản lý, lực lượng sản xuất và cơ sở vật chất - kỹ thuật, trình độ ứng dụng KHCN và năng suất lao động của nền kinh tế Thủ đô còn thấp. Một số chỉ tiêu CNH, HĐH đạt được so với các tỉnh thành trong cả nước là khá cao, nhưng đạt được còn rất thấp so các đô thị lớn của khu vực và thê giới như: GDP bình quân đầu người USD /năm dự kiến 2015 đạt khoảng 3600 USD, (bằng khoảng 1/3 so với mức thu nhập bình quân/người so với Thái lan); Giá trị sản phẩm công nghệ cao chỉ chiếm 42% trong tổng GDP (ở các nước phát triển tỷ lệ này chiếm trên 70%); Tỷ trọng thương mại điện tử (E-commerce- hoạt động kinh doanh bằng các phương pháp công nghệ điện tử) của các doanh nghiệp chiếm gần 70% (trên 30% các doanh nghiệp chưa tham gia hoạt động kinh doanh bằng các phương pháp công nghệ điện tử); Tỷ lệ đầu tư R&D so với GDP chiếm khoảng 2% (ở các nước phát triển tỷ lệ này chiếm trên 6%); Tỷ lệ lao động qua đào tạo so với tổng số lao động chỉ chiếm 55%; Tỷ lệ đô thị hóa đạt 51,5% (thấp hơn so với  thủ đô các nước trong khu vực khoảng 30%);  Các chỉ tiêu Quản lý đô thị (dân cư, trật tự xây dựng giao thông, môi trường…) theo công nghệ, phương pháp tiên tiến, hiện đại) xây dựng chính quyền điện tử còn kém xa các nước phát triển trong xu thế hội nhập.

-  Kinh tế phát triển chưa tương xứng với vị thế, tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội tương đối cao qua các năm nhưng chưa đảm bảo chất lượng và phát triển theo hướng bền vững. Các nguồn lực về con người, vốn, đất đai, văn hóa, khoa học, công nghệ… chưa được khai thác hiệu quả. Động lực chính cho tăng trưởng hiện nay vẫn dựa chủ yếu vào các yếu tố vốn, lao động -  những yếu tố giúp tăng năng lực sản xuất về chiều rộng, thiên về “cung” chưa chú ý đến “cầu” và các yếu tố đảm bảo phát triển bền vững. Tác động của những nhân tố khác đóng góp vào tăng trưởng là chưa nhiều như: năng suất lao động, năng suất nhân tố tổng hợp TFP (Năng suất lao động tăng chậm từ 1.221 USD năm 2000, năm 2005 là 2.180USD, đến 2013 đạt khoảng 6.000USD nghĩa là tăng năng suất lao động chỉ chiếm khoảng trên 20%, tăng lao động hơn 20%, so sánh với các nước trong khu vực thì tăng năng suất lao động chiếm tới 40% tổng mức tăng trưởng. Tỷ lệ đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp TFP phụ thuộc vào mức tăng tỷ lệ đóng góp của nhân tố vốn (Hệ số ICOR tăng lên liên tục giai đoạn 2001 - 2005 là 3,5 từ 2005 đến nay, hệ số ICOR của Hà Nội năm 2005 là 4,6; năm 2008 là 6,3; giai đoạn 2010 - 2015 bình quân 6,5. Hệ số này đã cao hơn khá nhiều so với các nước trong khu vực như Hàn Quốc (3,0), Trung Quốc (4,0 từ 2001- 2006), Thái Lan (4,1 từ 1981-1995),… Điều đó cho thấy, hiệu quả đầu tư tương đối thấp và có xu hướng gia tăng).

- Công nghệ sản xuất nhìn chung còn lạc hậu so với thế giới và khu vực. Có đến gần nửa doanh nghiệp công nghiệp trong nước vẫn đang sử dụng công nghệ đơn giản, lạc hậu, tụt hậu tới 1-2 thế hệ so với các nước trong khu vực. Cơ chế, chính sách hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sạch còn thiếu. Chưa có hệ thống các chính sách đầy đủ để tạo môi trường thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, đưa lại năng suất chất lượng, hiệu quả cao... Tương quan giữa chuyển dịch lao động và chuyển dịch CCKT  nông nghiệp còn chưa hợp lý. Nông - lâm - ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động (khoảng 20%), nhưng lại có tỷ trọng  chỉ 5% trong GDP.

- Chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng kết hợp với tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế (trong điều kiên suy giảm kinh tế những năm qua) triển khai chậm. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức, phát triển các ngành, lĩnh vực trình độ chất lượng cao chưa có chuyển biến mạnh; chuyển dịch cơ cấu vùng theo hướng ưu tiên phát triển ngoại thành, phát triển các đô thị vệ tinh, gắn với phát triển nông thôn mới, hợp tác Vùng còn chậm. Tái cơ cấu đầu tư công vẫn còn chậm và tồn tại nhiều bất cập. Đầu tư từ ngân sách Thành phố còn dàn trải, hiệu quả đầu tư một số dự án chưa cao như yêu cầu. Việc thực hiện tái cơ cấu DNNN nhìn chung chưa thiết lập được hệ thống thể chế và động lực khuyến khích thúc đẩy phân bổ lại nguồn lực hiện có theo cơ chế thị trường nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Việc thực hiện tái cơ cấu ngân hàng vẫn chưa đạt được những chuyển biến rõ rệt về chất, một số hoạt động vẫn tiềm ẩn rủi ro. Các hoạt động liên kết, hợp tác kinh tế trong và giữa các ngành, các thành phần kinh tế, cũng như giữa Thủ đô với các địa phương, tỉnh thành trong cả nước chưa thật chặt chẽ, hiệu quả. Thủ đô Hà Nội chưa thể hiện rõ vai trò “đầu tầu” trong liên kết kinh tế và hội nhập quốc tế.

- CNH - HĐH nông thôn ngoại thành nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, còn sự mất cân đối lớn giữa tốc độ, quy mô, trình đô phát triển giữa nội và ngoại thành. Tăng trưởng bình quân khu vực ngoại thành đạt gần 9%/năm (so với nội thành 12%/năm). Khu vực ngoại thành chiếm tới trên 75% diện tích, xấp xỉ 50% dân số (dân số Hà Nội đến cuối năm 2014 là 7,3 triệu. người), nhưng chỉ tạo ra 30% GDP, tiếp nhận 25 - 30% vốn đầu tư ngân sách tập trung của Thành phố. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động khu vực nông thôn còn chậm không theo kịp tiến trình đô thị hóa. Sản xuất nông nghiệp vẫn là ngành chủ yếu trong kinh tế ngoại thành; áp dụng KHCN nhất là các thành tựu sinh học biến đổi gien – di truyền và công nghệ sạch còn hạn chế, năng suất và sản lượng cây trồng vật nuôi rất thấp nếu so với thế giới. Ngoài ra, còn nhiều hạn chế khác về tích tụ, tập trung sản xuất, vốn, cũng như áp dụng cơ giới hóa, HĐH các quy trình sản xuất nông nghiệp, các tiến bộ về giống và thâm canh để đạt năng suất và có giá trị hàng hóa cao, đảm bảo chất lượng nông sản và an toàn vệ sinh thực phẩm. Thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển khu vực ngoại thành còn còn hạn chế. Hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội của vùng xa trung tâm còn khó khăn. Khoảng cách thụ hưởng dịch vụ công giữa thành thị và nông thôn còn lớn. Việc đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho nông dân, nhất là ở những nơi bị thu hồi đất sản xuất, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.

   -  Công tác quy hoạch, quản lý đô thị, phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội có nhiều mặt hạn chế, yếu kém, chưa theo kịp yêu cầu CNH, HĐH. Quản lý trật tự xây dựng, quản lý đất đai còn bất cập. Huy động các nguồn lực xã hội hóa xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị chưa đáp ứng. Tiến độ di dời các cơ sở công nghiệp, y tế ô nhiễm, trường đại học cao đẳng ra ngoài khu vực nội đô còn chậm. Công tác giải phóng mặt bằng còn khó khăn; trật tự an toàn giao thông vẫn diễn biến phức tạp; giãn dân khu vực nội đô còn chậm. Môi trường sinh thái còn ô nhiễm, đặc biệt tại một số làng nghề, khu, cụm công nghiệp. Một số công trình, dự án về xây dựng cơ bản triển khai chậm, hiệu quả đầu tư không cao. Tiến trình đô thị hóa diễn ra khá nhanh nhưng thiếu quy hoạch đồng bộ,thụ động, phân tán, thiếu tập trung một cách đình hướng, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường.

- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội và chính sách huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển còn phân tán, bất cập so với nhu cầu phát triển của một đô thị hiện đại. Tình trạng ùn tắc giao thông, công tác GPMB, tỷ lệ diện tích dành cho giao thông đô thị, tỷ lệ cây xanh, hệ thống thoát nước và xử lý nước, rác thải, sự phân bố các khu, cụm công nghiệp và các khu đô thị mới còn phân tán, thiếu tính đồng bộ và đầu tư  thiếu tập trung dẫn đến những bất cập trong công tác quản lý đô thị, hạn chế đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và các vấn đề về văn hóa, xã hội và chất lượng sống của Thành phố. Đẩy mạnh XHH các nguồn vốn - chìa khóa quan trọng của quá trình rút ngắn CNH, HĐH  còn  yếu; cơ chế huy động nguồn vốn còn  bất cập dẫn đến nguồn vốn sử dụng vừa thiếu vừa lãng phí, chưa phát huy yếu tố tích cực đối với nhu cầu đầu tư xã hội.

- Phát triển văn hoá - xã hội chưa tương xứng với tốc độ CNH, HĐH Thủ đô. Chương trình xây dựng người Hà Nội văn minh, thanh lịch trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Chưa hình thành được hệ giá trị nhân cách với các chuẩn mực lối sống con người Hà Nội. Một số thiết chế văn hóa, thể thao hoạt động kém hiệu quả. Các cơ chế, chính sách dành cho phát triển văn hóa còn chưa theo kịp tiến CNH, HĐH.  An sinh xã hội, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân nhiều mặt còn hạn chế, một số vụ việc gây bức xúc trong xã hội. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm. Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm còn yếu kém. Ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, chấp hành pháp luật, nhất là luật an toàn giao thông chưa tốt. Khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn, nhất là những vùng khó khăn còn lớn.

- Khoa học - công nghệ chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của đội ngũ các nhà khoa học trên địa bàn Thành phố; ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật còn ở mức thấp, hiệu quả chưa cao. Các cơ chế, chính sách phục vụ cho phát triển khoa học và công nghệ vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ và mang tính hình thức. Đầu tư cho khoa học và công nghệ còn dàn trải, chưa tập trung vào giải quyết những vấn đề công nghệ trọng điểm. Phát triển giáo dục đào tạo và nguồn nhân lực - lao động Thủ đô được cải thiện, tuy nhiên còn nhiều hạn chế: chất lượng đào tạo và dậy học chưa đáp ứng, thiếu lao động có tay nghề và năng lực chuyên môn sâu, tỷ lệ lao động phổ thông cao; cơ cấu lao động và việc làm dịch chuyển chậm hơn tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn tới tình trạng thừa lao đông và bức xúc về việc làm, đời sống; mạng lưới cơ sở đào tạo chưa được quy hoạch đồng bộ; đội ngũ chuyên gia đầu ngành ở một số ngành, lĩnh vực còn thiếu.

-  Công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện, CCHC của một số cơ quan chính quyền còn nhiều mặt bất cập, có những lĩnh vực thiếu năng động, quyết liệt, chưa đáp ứng yêu cầu của tiến trình CNH, HĐH. Một bộ phận cán bộ, công chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, ý thức, trình độ, năng lực hạn chế, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, nhất là những việc khó, nổi cộm, bức xúc. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa thực sự hiệu quả; tình trạng lãng phí, thất thoát trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong quản lý đất đai, thực hiện các dự án, trong chi tiêu, quản lý tài sản và ngân sách nhà nước của một số ngành, địa phương, đơn vị chưa được tập trung chỉ đạo giải quyết triệt để. Năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước còn nhiều bất cập. Phân cấp quản lý còn chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn, điều hành vĩ mô còn lúng túng và chưa nhạy bén, đôi khi mang tính tình thế bị động.Triển khai chính quyền điện tử còn chậm: công tác tích hợp dữ liệu còn chưa được chú trong; chưa có khung chiến lược chính quyền điện tử với lộ trình, nhiệm vụ, chỉ tiêu cụ thể, giải pháp khả thi.

    2. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam và Hà Nội trong bối cảnh tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN.

Việc thành lập chính thức Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ đánh dấu một mốc quan trọng nỗ lực của ASEAN trong việc hoàn thành các mục tiêu của một khu vực hội nhập, thể hiện ở "Một Tầm nhìn, Một Bản sắc, Một Cộng đồng".

2.1.Cơ hội:

Tham gia hình thành một thị trường rộng lớn: Việc hình thành Cộng đồng ASEAN trong đó có Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ là một bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập khu vực một cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á, hướng tới mô hình một cộng đồng kinh tế - an ninh - xã hội. AEC dự kiến thứ nhất, sẽ là một nền sản xuất chung, một thị trường hàng hóa chung. Có nghĩa hơn 90% tổng số hàng hóa giao dịch trong khối ASEAN sẽ có thuế xuất bằng 0. Thứ hai là có thị trường dịch vụ chung, sẽ được trao đổi và sử dụng chung trong khu vực ASEAN. Thứ ba, có thị trường đầu tư chung, nguồn vốn được dịch chuyển tự do. Thứ tư, sự dịch chuyển tự do của thị trường lao động có tay nghề. Một thị trường hàng hóa và dịch vụ thống nhất sẽ thúc đẩy phát triển mạng lưới sản xuất trong khu vực, nâng cao năng lực của ASEAN với vai trò là một trung tâm sản xuất toàn cầu đáp ứng yêu cầu đối với chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tham gia hợp tác ASEAN sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi trong khu vực, đảm bảo sự ổn định trong các hoạt động xuất nhập khẩu và thị trường đầu tư, tạo điều kiện để bảo vệ lợi ích kinh tế cho Việt Nam và lợi ích kinh tế toàn khu vực trong quan hệ với các nước, các tổ chức kinh tế thế giới. Việt Nam có cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việc tiếp cận thị trường của Việt Nam sẽ được cải thiện bởi môi trường thương mại hiệu quả, cùng với việc đơn giản hóa thủ tục hải quan, giảm thiểu chi phí cho các giao dịch thương mại quốc tế sẽ góp phần tạo dựng một môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh. Dòng chảy thương mại, đầu tư, vốn và lao động dự kiến sẽ tăng đáng kể giữa 10 quốc gia thành viên ASEAN.

Cộng đồng kinh tế ASEAN đang hướng tới mục tiêu tạo dựng một khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao, thịnh vượng và ổn định, theo đó khu vực này sẽ ưu tiên 6 yếu tố chủ chốt là: chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống thuế khóa và thương mại điện tử, đồng thời thúc đẩy năng lực cạnh tranh của khu vực này bằng cách lợi thế hóa phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kỹ năng, phát triển nguồn nhân lực và công nghệ. Những động lực này là để lấp đầy khoảng cách giữa các quốc gia thành viên ASEAN, thúc đẩy hội nhập kinh tế của Cambodia, Lào, Myanmar và Việt Nam, cho phép các nước thành viên cùng hướng tới một mục tiêu chung và đảm bảo tất cả các quốc gia này đều có được lợi ích công bằng trong quá trình hội nhập kinh tế.

Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội lớn không những trong việc mở rộng thị trường với 600 triệu dân, mà còn có cơ hội tiếp cận với thị trường rộng lớn hơn là những đối tác của ASEAN, vì ASEAN có một số hiệp định thương mại tự do với các đối tác như Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản,Trung Quốc và một số nước khác thông qua các thỏa thuận Thương mại tự do (FTAs) riêng rẽ. Cơ hội tiếp cận thị trường mới dành cho các nhà xuất khẩu ASEAN được mở rộng với việc loại bỏ các rào cản thương mại và dịch vụ.

Việc tham gia AFTA của Việt Nam về lâu dài sẽ thúc đẩy thương mại, tạo điều kiện cho nước ta mở rộng thị trường buôn bán với các nước phát triển. Chính vì thế, Cộng đồng ASEAN sẽ tiếp tục là chiếc cầu nối để Việt Nam tiếp cận các tổ chức kinh tế, các bạn hàng trong và ngoài khu vực. Thông qua việc tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, chúng ta có điều kiện thuận lợi để tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài, phát huy nguồn lực trong nước có hiệu quả và mạnh mẽ hơn. Thông qua các chương trình hợp tác trong Cộng đồng ASEAN trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, chuyên ngành…, nước ta có điều kiện để nâng cao khả năng sản xuất, tăng cường đầu tư, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trong khu vực.

 Hội nhập Cộng đồng ASEAN sẽ giúp Việt Nam phát huy những tiềm năng về nguồn tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động, vị trí chiến lược về giao thông vận tải… Mặc dù giữa Việt Nam và các nước trong Cộng đồng ASEAN có những nét tương đồng về tài nguyên thiên nhiên, nông sản nhiệt đới, lao động… nhưng trong quá trình hội nhập, các nước thành viên có thể liên kết với nhau, tạo ra lợi thế chung trong trao đổi với các khu vực khác, phát huy lợi thế so sánh của liên kết khu vực trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam và các nước ASEAN đều có những thế mạnh riêng có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong quá trình liên kết trong Cộng đồng. Hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ giúp thị trường lao động trở nên sôi động hơn, giúp thúc đẩy và tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên...., giúp Việt Nam tham gia tích cực hơn thị trường lao động khu vực (khi Cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức hoạt động, sẽ có 8 ngành nghề có chuyển dịch tự do từ nước này sang nước kia làm việc, như kỹ sư, bác sỹ, nha sỹ, y tá, hộ lý, kiểm toán, nhân viên du lịch...).

Hội nhập Cộng đồng ASEAN, Việt Nam có điều kiện đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chúng ta có thể học tập kinh nghiệm quản lý trong một số lĩnh vực vốn là thế mạnh của một số nước ASEAN như kinh nghiệm về quản lý tài chính - ngân hàng, cảng biển, quan hệ mậu dịch của Singapore; kinh nghiệm phát triển nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản của Thailand, Malaysia, Indonesia; kinh nghiệm phát triển công nghệ thông tin của Singapore, Malaysia… việc học hỏi kinh nghiệm của các nước trong Cộng đồng ASEAN sẽ giúp Việt Nam tiến nhanh hơn trên con đường phát triển và hội nhập.

2.2.Thách thức:

Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và các nước trong Cộng đồng ASEAN còn chênh lệch khá lớn, nhất là so với các nước thành viên sáng lập ASEAN. Nền kinh tế nước ta cho đến nay tuy có nhiều tiến bộ vượt bậc, vẫn ở trình độ thấp so với các nước ASEAN, kết cấu hạ tầng, trình độ quản lý còn yếu, tỉ lệ tích luỹ, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao.... Chúng ta vẫn thiếu năng lực thể chế để có thể theo kịp tốc độ liên kết kinh tế của các thành viên cũ là ASEAN-6. Tình trạng chênh lệch về phát triển tác động bất lợi tới hợp tác xây dựng chính sách chung về thương mại, đầu tư, đặc biệt về tài chính và tiền tệ.

 Gia nhập AFTA, chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức trong cạnh tranh với các nước ASEAN. Trong điều kiện chênh lệch về trình độ kĩ thuật, công nghệ, hàng hoá của Việt Nam tuy có cùng chất lượng, mẫu mã nhưng giá thành sản phẩm cao hơn do chi phí cao. Trong khi đó, hàng hoá của các nước ASEAN có giá thành rẻ hơn, lại được sự hỗ trợ của chính phủ trong chính sách tăng cường xuất khẩu, có khả năng tràn vào thị trường Việt Nam, lấn át sản xuất trong nước.

Tham gia AEC, các doanh nghiệp Việt Nam phải “đương đầu với những thách thức, cạnh tranh mới”. Những thay đổi đến từ AEC sẽ tác động đến các doanh nghiệp tiêu cực lẫn tích cực, tăng thêm tính cạnh tranh khu vực, đặc biệt là với đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý để thường xuyên tự đánh giá sự chuẩn bị của mình, tăng mức độ thích nghi.

Thị trường phân phối ở Việt Nam sẽ bị chi phối mạnh. Hiện nay, thị trường phân phối của Việt Nam đã bị chi phối rất nhiều bởi các siêu thị quốc tế. Ngoài Metro còn có Big C, AEON... Nếu sự chiếm giữ này lọt vào tay các doanh nghiệp nước ngoài cùng với thuế nhập khẩu giảm về bằng 0 thì các siêu thị đó sẽ ưu tiên cho các nước mở chuỗi siêu thị tại Việt Nam. Lúc đó, hàng Việt Nam chắc chắn bị lép vế. Đây chính là điều rất đáng lo ngại. Ngành bán lẻ, tiêu dùng được dự báo là ngành chịu tổn thương nhiều nhất. Cuộc đổ bộ rầm rộ của các đại gia bán lẻ Thái Lan gần đây khiến cho sức ép cạnh tranh trên thị trường bán lẻ đang gay gắt hơn bao giờ hết.

Cạnh tranh về việc làm được dự báo sẽ ngày càng khốc liệt hơn. Tự do thương mại giữa các nước thành viên ASEAN sẽ kéo theo sự dịch chuyển của hàng trăm triệu lao động trong khu vực, bao gồm cả Việt Nam. Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, số lượng việc làm tại Việt Nam sẽ tăng thêm khoảng 14,5% vào năm 2025. Một trong những thức đối với Việt Nam là năng lực cạnh tranh của lực lượng lao động vào thị trường lao động ASEAN khi Cộng đồng kinh tế ASEAN thực hiện tự do lưu chuyển nguồn nhân lực kỹ năng cao.

Cuối cùng, nhìn chung các chính sách điều hành kinh tế hiện nay của Việt Nam không theo kịp với tiến trình hội nhập. Doanh nghiệp và người dân rất thiếu thông tin về AEC. Kể cả các cơ quan quản lý không cập nhật đủ thông tin về các hiệp định thương mại, về tiến trình ký kết hay các đối tác cạnh tranh...

3. Định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế Thủ đô nhằm góp phần cùng cả nước tích cực tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN.

Định hướng chung được xác định là: Tiếp tục phát triển kinh tế Thủ đô theo hướng nhanh và bền vững, gắn với hội nhập khu vực và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, có nhiều sản phẩm với hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và khu vực ASEAN. Đẩy mạnh phát triển thương mại theo hướng văn minh, hiện đại; phát triển du lịch gắn với phát triển Vùng, cả nước và khu vực ASEAN. Huy động nguồn lực đầu tư từ các nước trong khu vực, quốc tế, kết hợp với đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực đầu tư. Tập trung phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, môi trường bền vững. Mở rộng quan hệ đối ngoại của Thủ đô với các thành phố trong khu vực ASEAN, trong tâm là hợp tác kinh tế, văn hóa – xã hội, GD-ĐT, KHCN, nâng cao vị thế của Thủ đô, góp phần cùng cả nước tích cực tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN.

 Thực hiện định hướng trên, cần tập trung ưu tiên một số giải pháp:

1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với cơ cấu lại kinh tế Thủ đô bảo đảm mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững.

Thực hiện mô hình tăng trưởng kết hợp hiệu quả phát triển theo chiều rộng với chiều sâu, phát triển nhanh, bền vững. Tập trung các giải pháp để đảm bảo tăng trưởng bình quân GRDP từ 8,5-9%. Nâng cao chất lượng tăng trưởng trên cơ sở nâng cao năng xuất lao động, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện quản lý và quản trị hiện đại, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, đảm bảo an sinh xã hội, thân thiện và bảo vệ môi trường; phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại kinh tế Thủ đô, tập trung vào các lĩnh vực: Cơ cấu lại đầu tư công theo hướng tập trung, trọng điểm, đồng bộ và hiệu quả. Tập trung đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết không có khả năng xã hội hóa; tăng cường kêu gọi đầu tư kết cấu hạ tầng từ nguồn vốn ngoài ngân sách theo các hình thực hợp đồng đối tác công tư PPP; Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước theo hướng đẩy mạnh thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước theo chỉ đạo của Chính phủ và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước; Cơ cấu lại các ngành theo hướng chất lượng hiệu quả, phát triển các ngành hàng, sản phẩm mũi nhọn ứng dụng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, sử dụng lao động chất lượng và thân thiện môi trường.  

2. Phát triển toàn diện các ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Lĩnh vực dịch vụ: Tập trung phát triển mạnh các phân ngành, lĩnh vực Thủ đô có thế mạnh, nhất là các dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao. Tiếp tục phát triển hệ thống trung tâm thương mại, mạng lưới siêu thị, trung tâm bán buôn, chợ theo hướng văn minh hiện đại. Phát triển một số ngành có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như dịch vụ hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, khoa học công nghệ, tập trung xây dựng, phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán; xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính - ngân hàng hàng đầu ở phía bắc và có vai trò quan trọng trong cả nước.

    Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng: Tập trung phát triển nhanh một số ngành, sản phẩm công nghiệp có giá trị gia tăng lớn, ứng dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường: công nghiệp chế biến chế tạo, công nghệ thông tin, công nghiệp hỗ trợ, các ngành và sản phẩm khác đòi hỏi công nghệ cao. Thu hút, kêu gọi đầu tư lấp đầy các khu, cụm công nghiệp hiện có. Xây dựng mới và mở rộng một số khu công nghiệp: Tiếp tục phát triển các làng nghề, phố nghề truyền thống theo hướng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ cao. Kết hợp giữa phát triển các làng nghề với phát triển du lịch.

    Lĩnh vực nông nghiệp: Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và phương thức sản xuất tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở ổn định vùng sản xuất nông nghiệp, mở rộng các vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh, các vành đai xanh, các tuyến nông nghiệp sinh thái và các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

3. Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp về xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển Thủ đô và hội nhập.

Phát triển mạnh hệ thống hạ tầng dịch vụ, logistic cả về số lượng và chất lượng. Quan tâm quy hoạch mạng lưới và xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng hóa sản phẩm có tính liên kết vùng, nhất là sản phẩm du lịch gắn với các di sản Thế giới và quốc gia trên địa bàn Thủ đô và trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hoàn thành xây dựng, khai thác có hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, làng nghề tập trung trên địa bàn. Ưu tiên đầu tư và đẩy mạnh thu hút đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhất là các dự án, công trình trọng điểm.

4. Tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách toàn diện về điều kiện kinh doanh, quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Giai đoạn 2016 - 2020, phấn đấu cùng cả nước nâng chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam đạt mức trung bình của nhóm nước ASEAN - 4 trên một số chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế: tiếp cận điện năng, bảo vệ nhà đầu tư, hải quan, nộp thuế và bảo hiểm bắt buộc; giảm thời gian đăng ký doanh nghiệp; đơn giản thủ tục, giảm thời gian xin cấp phép xây dựng, thời gian đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản; về cải cách hành chính thuế; đơn giản quy trình, hồ sơ và thủ tục xuất nhập khẩu, hải quan... Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt nội dung, tầm quan trọng của việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của  Thành phố.

Thực hiện các biện pháp đồng bộ cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch, bình đẳng, phù hợp tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế; tăng cường xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch. Tạo môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp đầu tư, phát triển theo quy định của pháp luật; phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác xã và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từ các nước ASEAN.

Tăng cường các giải pháp thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ đầu tư, giải ngân vốn đối với các dự án đã có chủ trương đầu tư và đang thực hiện. Tiếp tục xây dựng định hướng thu hút, danh mục dự án kêu gọi đầu tư bằng nguồn vốn ODA, FDI. Thu hút đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực: cơ sở hạ tầng, công nghiệp “xanh”, thân thiện với môi trường; điện tử công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ...

5. Đẩy mạnh hợp tác phát triển trong nước, tích cực tham gia hợp tác trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN.

 Tăng cường liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong cả nước trên tinh thần hiệu quả, cùng có lợi, tăng cường sự hiểu biết, trao đổi kinh nghiệm phát triển kinh tế, tìm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư, hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Tổ chức tốt các hoạt động ngoại giao, hợp tác giữa Hà Nội và Thủ đô các nước thuộc Cộng đồng ASEAN. Chú trọng các hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, xúc tiến đầu tư, thương mại, quảng bá du lịch, nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu hút đầu tư, đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về Thủ đô.

Chủ động xây dựng và triển khai Chương trình hành động của Thành phố thực thi các cam kết trong Cộng đồng kinh tế ASEAN. Tuyên truyền, giới thiệu, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp tham gia Cộng đồng ASEAN, Hiệp định hợp tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tích cực tham gia hình thành và phát triển có hiệu quả các hành lang, vành đai kinh tế với các nước trong khu vực ASEAN, các thành phố lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Thông qua các cơ quan ngoại giao đóng trên địa bàn, Hà Nội mở rộng giao lưu thương mại, đầu tư, văn hoá, khoa học - công nghệ... với Thủ đô, thành phố các nước trong khu vực. Tạo điều kiện thuận lợi để tập trung đầu tư phát triển các nhóm sản phẩm, các ngành sản xuất có lợi thế cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, khuyến khích sáng tạo công nghệ. Thúc đẩy hợp tác và hội nhập khu vực về công nghệ cao. Hình thành cơ sở, trung tâm hợp tác nghiên cứu công nghệ cao; các dự án hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, khai thác các sáng chế, quyền sở hữu công nghiệp giữa các doanh nghiệp trên địa bàn với các doanh nghiệp các nước trong khu vực ASEAN và quốc tế về công nghệ cao.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2012), Nghị Quyết 11 NQ/TW ngày 06 tháng 01 năm 2012 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 - 2020.

2. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XV trình Đại hội Đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ thành phố Hà Nội; Hà Nội 01/2015

3. Tô Xuân Dân, Nguyễn Thành Công, Tác động của hội nhập KTQT đến tư duy, đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 2006.

4. PGS.TS. Nguyễn Duy Dũng, “Cộng đồng ASEAN: Thực trạng, thách thức và triển vọng”, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế: Cộng đồng ASEAN sau 2015: Cơ hội và thách thức, Đà Nẵng tháng 4/2015.

5. Dr.Werner R. Murhadi (Universitas Surabaya, Indonesia), “Cộng đồng kinh tế ASEAN: Chỉ mới ở bước khởi đầu”, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế: Cộng đồng ASEAN sau 2015: Cơ hội và thách thức, Đà Nẵng tháng 4/2015.