Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Giá kim loại đồng ngày 29/6: tăng nhẹ trên sàn Luân Đôn

Thành Luân
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Giá đồng ở Luân Đôn ổn định, nhưng đang trên đà ghi nhận mức giảm hàng tháng lớn nhất kể từ tháng 5/2023 trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế không ổn định ở nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc và hàng tồn kho cao hơn.

Đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn tăng 0,5%.
Đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn tăng 0,5%.

Đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,5% ở mức 9.558,50 USD/tấn. Hợp đồng này đã giảm 4,8% trong tháng 6 và có tuần giảm thứ sáu liên tiếp nếu xu hướng hiện tại được giữ nguyên.

Sau khi tăng lên mức cao kỷ lục 11.104,50 USD vào ngày 20/5, giá đồng đã giảm 14%, một phần do dữ liệu kinh tế trì trệ từ Trung Quốc và sự không chắc chắn về lãi suất của Mỹ.

Nhà phân tích Natalie Scott-Gray của StoneX cho biết, các thị trường đã chuyển quan điểm của họ sang thực tế là nhu cầu yếu, đặc biệt là ở Trung Quốc. Trong khi đó, nếu nhìn sang Trung Quốc, sức khỏe của ngành sản xuất vẫn còn u ám, Mỹ đang hoạt động tốt hơn, nhưng Châu Âu vẫn đang trong thời kỳ suy thoái sản xuất.

“Tôi nghĩ chúng ta sẽ thấy giá đồng trung bình khoảng 9.500 USD/tấn trong năm nay, nhưng giá có thể sẽ vượt trên 10.500 USD vào cuối năm, khi tôi nghi ngờ rằng chúng ta sẽ có đợt cắt giảm lãi suất đầu tiên ở Mỹ” - Natalie cho hay.

Tồn kho đồng trong các kho do sàn giao dịch tương lai Thượng Hải theo dõi ở mức 322.910 tấn vào tuần trước, so với khoảng 30.000 tấn trong tháng 1, phản ánh nguồn cung dồi dào ở Trung Quốc.

Hợp đồng đồng tháng 8 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải SCFcv1 tăng 0,2% ở mức 78.060 Nhân dân tệ (10.741,56 USD), nhưng được thiết lập để ghi nhận tháng tồi tệ nhất kể từ tháng 7/2022.

Trên thị trường rộng lớn hơn, đồng USD đang hướng tới mức tăng hàng tháng, khiến kim loại được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Nhôm LME CMAL3 tăng 0,5% lên 2.504,50 USD/tấn, niken CMNI3 tăng 0,7% lên 17.220,00 USD, kẽm CMZN3 tăng 0,6% ở mức 2.947,50 USD, chì CMPB3 tăng 0,5% lên 2.189,50 USD và thiếc CMSN3 tăng 0,6% ở mức 32.440 USD.

Nhôm SHFE SAFcv1 ổn định ở mức 20.250 Nhân dân tệ/tấn, niken SNIcv1 giữ nguyên ở mức 134.920 Nhân dân tệ, chì SPBcv1 tăng 0,6% lên 19.370 Nhân dân tệ, trong khi kẽm SZNcv1 tăng 0,6% lên 24.370 Nhân dân tệ và thiếc SSNcv1 tăng 1,1% ở mức 269.560 Nhân dân tệ.