Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thép Hòa Phát điều chỉnh tăng giá bán, với 2 sản phẩm của hãng bao gồm dòng thép cuộn CB240 tăng 200 đồng lên mức 16.970 đồng/kg. Tương tự, thép D10 CB300 cũng tăng 200 đồng, có giá 17.020 đồng/kg.
Thép Việt Ý điều chỉnh tăng mạnh giá bán. Hiện dòng thép cuộn CB240 tăng 310 đồng lên mức 16.920 đồng/kg; thép D10 CB300 tăng 300 đồng có giá 17.020 đồng/kg.
Thép Việt Mỹ tăng giá bán, với 2 sản phẩm của hãng bao gồm thép cuộn CB240 tăng 100 đồng lên mức 16.560 đồng/kg và thép thanh vằn D10 CB300 tăng 200 đồng có giá 16.660 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Đức tăng giá bán, vượt ngưỡng 17.000 đồng. Trong đó, với thép cuộn CB240 tăng 200 đồng lên mức 17.150 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 tăng 260 đồng, hiện có giá 17.460 đồng/kg.
Thép Việt Sing có sự điều chỉnh, tăng giá bán. Với 2 sản phẩm của hãng là thép cuộn CB240 tăng 50 đồng lên mức 17.050 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 tăng 200 đồng lên mức giá 17.250 đồng/kg.
Thép Việt Nhật điều chỉnh tăng 300 đồng, với dòng thép cuộn CB240 lên mức 17.200 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.250 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát tăng giá bán, hiện 2 sản phẩm của hãng tăng 200 đồng bao gồm thép cuộn CB240 lên mức 17.020 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.070 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Đức điều chỉnh tăng nhẹ, với thép cuộn CB240 tăng 50 đồng lên mức 17.100 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 tăng 100 đồng có giá 17.410 đồng/kg.
Thép Việt Mỹ điều chỉnh giá bán, hiện dòng thép cuộn CB240 tăng 260 đồng lên mức 16.770 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 tăng 360 đồng, hiện có giá 16.820 đồng/kg.
Thép Pomina không có thay đổi, tiếp tục bình ổn. Hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 17.310 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.410 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát điều chỉnh tăng giá bán, với 2 sản phẩm của hãng là dòng thép cuộn CB240 tăng 200 đồng lên mức 17.020 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 tăng 200 động, hiện có giá 17.070 đồng/kg.
Thép Việt Mỹ tăng mạnh giá bán, hiện 2 sản phẩm của hãng là thép cuộn CB240 tăng 250 đồng lên mức 16.610 đồng/kg và thép thanh vằn D10 CB300 tăng 360 đồng lên mức giá 16.720 đồng/kg.
Thương hiệu thép Tung Ho với 2 sản phẩm của hãng là dòng thép cuộn CB240 tăng 200 đồng, hiện có giá 17.100 đồng/kg; còn thép thanh vằn D10 CB300 cũng tăng 200 đồng lên mức 17.200 đồng/kg.
Thép Pomina không có biến động, với thép cuộn CB240 hiện ở mức 17.360 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.510 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Giá thép giao kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 93 Nhân dân tệ xuống mức 4.759 Nhân dân tệ/tấn.
Theo Hiệp hội Sắt và Thép Trung Quốc (CISA), sản lượng thép thô trung bình hàng ngày của Trung Quốc đã ghi nhận mức thấp nhất trong ba năm vào tháng 9. Sản lượng trung bình hàng ngày trong tháng 9 giảm 21,2% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 2,46 triệu tấn. "Việc sụt giảm sản lượng là điều bắt buộc khi chi phí sản xuất và năng lượng của ngành thép bị kiểm soát" - CISA thông tin.
Tuy nhiên, việc cắt giảm sản lượng không ảnh hưởng đến lợi nhuận của các nhà máy thép lớn của Trung Quốc. Trong chín tháng đầu năm nay, lợi nhuận của các công ty sắt thép lớn của đất nước đã tăng 123% so với cùng kỳ năm ngoái.
Là một phần của sự chuyển dịch xanh của ngành công nghiệp thép tiêu thụ nhiều năng lượng, Trung Quốc đã tuyên bố sẽ giảm sản lượng thép thô vào năm 2021 so với một năm trước đó.
Bên cạnh đó, CISA cũng tuyên bố sẽ phát triển nguồn cung nguyên liệu, cải thiện cơ chế định giá đối với quặng sắt, đồng thời tinh chỉnh các quy tắc giao dịch kỳ hạn để đảm bảo ngành công nghiệp và chuỗi cung ứng ổn định.
Dữ liệu từ Hiệp hội Thép thế giới cũng cho thấy, sản lượng thép thô của Trung Quốc tăng với tốc độ chậm hơn so với phần còn lại của thế giới trong 8 tháng đầu năm, với mức tăng trưởng là 10,6% so với mức 18,1% của các quốc gia khác.
Trước đó, CISA đã cam kết sẽ đẩy nhanh việc phát triển các nguồn quặng sắt trong nước và xây dựng các mỏ sắt ở nước ngoài do các công ty Trung Quốc đầu tư, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp sắt thép cho đất nước trong Kế hoạch 5 năm 2021 - 2025 lần thứ 14.