Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Hàng loạt công trình giao thông quy mô lớn cho Vùng Đồng bằng sông Hồng

Trâm Anh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Diện mạo hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông của Vùng Đồng bằng sông Hồng có sự thay đổi rõ rệt, nhiều công trình quan trọng đã được đầu tư đưa vào khai thác.

Đã huy động 137.000 tỷ đồng cho đầu tư hạ tầng giao thông vùng

Tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư Vùng diễn ra sáng 12/2, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng cho biết: Thống kê giai đoạn 2005-2020, ngân sách trung ương (Bộ GTVT quản lý) đã huy động để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông quốc gia trong vùng lên đến khoảng 137.000 tỷ đồng.

Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thắng phát biểu tham luận tại Hội nghị
Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thắng phát biểu tham luận tại Hội nghị

Về đường bộ, đã đưa vào khai thác 9 tuyến cao tốc với tổng chiều dài 576 km, 25 tuyến quốc lộ với chiều dài 2.133 km. Về đường sắt, đã và đang cải tạo, nâng cấp duy trì khai thác 6 tuyến đường sắt quốc gia.

Về hàng hải, đã đầu tư để hình thành 4 cảng biển là Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Ninh Bình, trong đó cảng Hải Phòng là cảng cửa ngõ quốc tế. Về đường thủy nội địa, đang khai thác 37 tuyến đường thủy nội địa, đưa vào khai thác có hiệu quả tuyến vận tải thủy ven biển, vận tải từ bờ ra đảo.

Về hàng không, đang khai thác 3 cảng hàng không quốc tế là Nội Bài, Cát Bi, Vân Đồn.

Đồng thời, hệ thống giao thông địa phương được quan tâm đầu tư, kết nối có hiệu quả với hệ thống giao thông quốc gia.

Với mục tiêu đến năm 2030, Vùng Đồng bằng sông Hồng “có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, có tính kết nối cao” được nêu tại Nghị quyết số 30-NQ/TW, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương tập trung mọi nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông của vùng.

Theo đó, quyết tâm đầu tư hoàn thành các tuyến vành đai vùng (Vành đai 4, 5), cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng, Nội Bài - Hạ Long, Cổ Tiết - Chợ Bến, các tuyến liên kết vùng để phát triển hành lang, cực tăng trưởng, trung tâm kinh tế - đô thị, tạo đột phá phát triển vùng; mở rộng một số đoạn tuyến quốc lộ trong vùng theo quy hoạch và các đoạn tuyến đường bộ ven biển để đáp ứng nhu cầu vận tải, phát triển kinh tế biển.

Bên cạnh đó, Bộ GTVT sẽ tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp để khai thác hiệu quả các tuyến đường sắt hiện có, nâng cao kết nối thông suốt tuyến đường sắt liên vận quốc tế qua cửa khẩu Lào Cai, Đồng Đăng; đầu tư tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân; đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng kết nối đến cảng biển Đình Vũ, Lạch Huyện; đầu tư đường sắt khu đầu mối Hà Nội; hoàn thành các tuyến đường sắt đô thị trong khu vực đô thị trung tâm Hà Nội.

Ngay trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong vùng để triển khai các tuyến đường sắt đô thị kết nối đô thị trung tâm với đô thị vệ tinh của Thủ đô; nghiên cứu đầu tư các tuyến đường sắt đô thị kết nối Hà Nội với các tỉnh xung quanh (Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hà Nam...).

Cải tạo, đưa vào cấp kỹ thuật các tuyến đường thủy nội địa, kết nối thuận lợi từ Hải Phòng, Quảng Ninh về Hà Nội, Việt Trì, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình; nâng cấp tĩnh không cầu Đuống; xây dựng mới cảng container, các cảng khách đầu mối tại Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.

Khai thác hiệu quả cảng quốc tế Lạch Huyện; tiếp tục đầu tư các bến cảng tại cảng biển Hải Phòng, Quảng Ninh đáp ứng lượng hàng hóa thông qua trong từng thời kỳ; phát triển cảng tại các huyện đảo với quy mô phù hợp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh; chú trọng đầu tư đồng bộ giữa luồng và bến, kết nối liên hoàn giữa cảng biển trong vùng với phương thức vận tải khác, đầu mối vận tải khu vực; đầu tư các cảng cạn để hỗ trợ phát triển dịch vụ logistics.

Với tư cách là cửa ngõ giao lưu quốc tế của Vùng Đồng bằng sông Hồng, hai cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Cát Bi sẽ được đầu tư lớn để nâng cấp, mở rộng đáp ứng nhu cầu trong từng thời kỳ; khai thác hiệu quả cảng hàng không Vân Đồn.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu rõ, đến năm 2045, phát triển mạng lưới giao thông vận tải của Vùng Đồng bằng sông Hồng đồng bộ, hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.

5 giải pháp phát triển mạng lưới giao thông vận tải của Vùng Đồng bằng sông Hồng đồng bộ, hiện đại

Để đạt được các mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đáp ứng nhu cầu phát triển, tạo động lực tăng trưởng cho vùng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã đưa ra một số giải pháp:

Một là, cần đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch, quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông Vùng. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết nội vùng, liên vùng trong quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông để tạo không gian kinh tế thống nhất, khắc phục các điểm nghẽn, tăng năng lực cạnh tranh vùng, phát triển kinh tế biển; đầu tư kết cấu hạ tầng cần xét đến yêu cầu thích ứng với biến đổi khí hậu.

Hai là, cần đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền cho các địa phương trong vùng đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông do Trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh/thành phố, đặc biệt là các công trình đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng không để phát huy tính chủ động của các địa phương trong huy động nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.

Ba là, đa dạng nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để huy động vốn tư nhân, vốn hợp pháp khác tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, trong đó ưu tiên các nguồn lực để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông trọng điểm, có vai trò động lực, lan toả, liên kết vùng, kết nối các cảng biển, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Kết hợp hiệu quả nguồn vốn Trung ương và địa phương với nguồn vốn huy động ngoài ngân sách.

Bốn là, các địa phương sớm hoàn thành quy hoạch tỉnh đảm bảo phù hợp, đồng bộ với các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng, khai thác có hiệu quả quỹ đất sau khi các dự án kết cấu hạ tầng giao thông được đầu tư; chỉ đạo quyết liệt công tác giải phóng mặt bằng và quản lý chặt chẽ hành lang an toàn giao thông.

Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động vận tải, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, logistics, triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông; ứng dụng công nghệ trong tổ chức, điều hành giao thông, giảm ùn tắc tại khu vực ra vào đầu mối vận tải lớn (cảng biển, cảng hàng không)

Do nhu cầu vốn rất lớn, nên Bộ GTVT sẽ đa dạng nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để huy động vốn tư nhân, vốn hợp pháp khác tham gia đầu tư, trong đó ưu tiên các nguồn lực để đầu tư những công trình trọng điểm, có vai trò động lực, lan toả, liên kết vùng.

“Đây là những công trình góp phần cụ thể hóa Nghị quyết số 30-NQ/TW với mục tiêu đến năm 2030, Vùng Đồng bằng sông Hồng có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, có tính kết nối cao” - lãnh đạo Bộ GTVT cho biết.