Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Hành trình của sách

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Trong suốt hơn một thế kỷ rưỡi kể từ khi chữ quốc ngữ bắt đầu phổ biến ở Việt Nam theo bước chân của quân viễn chinh Pháp, người Việt đã đọc gì?

Để trả lời câu hỏi này và nhân Ngày sách Việt Nam 21/4, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây kết hợp với Diễn đàn sachxưa.net tổ chức cuộc triển lãm “Hành trình của sách”, giúp người xem phần nào có một cái nhìn sơ lược về sự hiện diện của sách - chủ yếu ở lĩnh vực văn học - trong đời sống văn hóa của người Việt Nam suốt một thế kỷ rưỡi qua.

Triển lãm chia các mảng sách theo chiều dọc thời gian, kể từ giai đoạn đầu tiên của chữ quốc ngữ thuộc thập niên 1870 của thế kỷ XIX cho tới ngày nay.
Hành trình của sách - Ảnh 1
Giai đoạn từ đầu những năm 1870 đến 1900, chữ quốc ngữ mới ở giai đoạn phôi thai. Các cuốn sách chữ quốc ngữ trong thời kỳ này gồm: Minh Tâm bửu giám, quyển 1 và 2 (xuất bản năm 1891, 1893), Đại Nam cuốc sử ký diễn ca (1875), Kiếp phong trần (1882)… của tác giả Trương Vĩnh Ký, Tiểu học gia ngôn diễn nghĩa (1899), Trị gia cách ngôn (1895), Ấu học khải mông - quyển 1 và 2 (1892,1893), Tuồng Joseph (1888) của Trương Minh Ký, Thơ Nam Kỳ (1876), khuyết danh; tuồng Kim Thạch kỳ duyên (1895) của Bùi Quang Nhơn… Tất cả những ấn bản này đều thuộc dạng cực hiếm trên thị trường sách cổ và nhiều bản lần đầu tiên đến với người xem trong một cuôc triển lãm chính thức.

Từ 1900 đến 1930, chữ quốc ngữ bắt đầu xác lập chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn hóa người Việt. Những cuốn sách được trưng bày đại diện cho giai đoạn này gồm: Tục ca lệ quyển 1 và 2 (1930), Thơ ngụ ngôn La Fontaine (1928), Qui-li-ve du ký (1928), Truyện các danh nhân Hy Lạp La Mã đối nhau (1932), Hài kịch của Moliere tiên sinh (1928), Kim Vân Kiều (1923)…

Ngoài ra, đã xuất hiện các nhà văn tiêu biểu của thời kỳ này như Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, các sách cổ văn được biên soạn dễ hiểu cho số đông người Việt Nam bình dân đọc. Sách trưng bày tại triển lãm giai đoạn này gồm: Tiên Bửu truyện của Nguyễn Đăng Hưởng (1904), Nhị độ mai tân soạn của soạn giả Xuân Lan (có nhiều khả năng đây là bút hiệu của Nguyễn Văn Vĩnh, 1929), Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát (1926), Truyện Thạch Sanh, Bùi Kỷ Cương dịch sang chữ quốc ngữ (1921), Gương sử Nam của tác giả Hoàng Thái Xuyên (1910), Vì nghĩa quên nhà, của Lê Quang Liêm và Hồ Biểu Chánh (1917), Ngọn cỏ gió đùa, 6 tập, của Hồ Biểu Chánh (1929), Nhơn tình ấm lạnh của Hồ Biểu Chánh (1928)…

Trong giai đoạn 1930 -1945, sự phát triển rực rỡ của văn học Việt Nam đi cùng với sự ra đời của Tự lực Văn đoàn, tổ chức văn học đầu tiên của Việt Nam mang đầy đủ tính chất một hội đoàn sáng tác theo nghĩa hiện đại. Cùng với phong trào Thơ mới trong một cuộc cách tân mang tính lịch sử, Tự lực Văn đoàn đã đóng góp những tác phẩm để đời cho người đọc Việt Nam. Những ấn phẩm quý giá được trưng bày gồm: Xuân Thu nhã tập của nhóm Xuân Thu nhã tập (1942), Lửa thiêng của Huy Cận (1940), Thơ thơ của Xuân Diệu (1938), Gói thuốc lá của  Thế Lữ (1944), Đồng bệnh của Khái Hưng (1942), Hai buổi chiều vàng của Nhất Linh (1937), Trại Bồ Tùng Linh của Thế Lữ (1941), Nửa chừng xuân của Khái Hưng (1934), Đoạn tuyệt của Nhất Linh (1936), Gánh hàng hoa của Khái Hưng và Nhất Linh (1934), đặc biệt là ấn phẩm mang tính tổng kết Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh-Hoài Chân xuất bản năm 1943…  

Ngoài ra, triển lãm còn trưng bày nhiều tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ 1954 đến 1960, giai đoạn 1960 đến 1975.