Cách đây gần 5 năm, sau khi cồng chiêng Tây Nguyên, nhã nhạc cung đình Huế được công nhận là di sản (DS) văn hóa phi vật thể của nhân loại, một loạt các DS khác như Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), thành nhà Hồ (Thanh Hóa), hát Xoan (Phú Thọ)… liên tục được các địa phương lên kế hoạch đề nghị Bộ VHTT&DL cho xây dựng hồ sơ ứng cử DS thế giới. Và để UNESCO vinh danh 17 DS của Việt
Hát Xoan tại Lễ hội Đền Hùng 2012
Tuy nhiên, sau khi được UNESCO công nhận, nhiều địa phương vẫn chưa tận dụng được những nguyên tắc đã cam kết để bảo tồn DS.
Mục tiêu của danh hiệu là tự nguyện bảo tồn
Danh hiệu DS thế giới là hoạt động mang tính khoa học, được tổ chức UNESCO chủ trì trên cơ sở Công ước quốc tế về Bảo vệ DS Văn hoá và Thiên nhiên Thế giới. Danh hiệu này ra đời năm 1977, hiện có trên 150 quốc gia thành viên thừa nhận tính pháp lý và hiệu lực. Mục tiêu của Công ước nằm ở tính hành động, các quốc gia tham gia phải tự nguyện đầu tư tiền và trí tuệ để gìn giữ và bảo vệ các DS không chỉ cho dân tộc mình, mà cho toàn nhân loại. Nhưng, GS Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian nhận xét: "Trong thời gian gần đây các địa phương đua nhau lập hồ sơ DS để đệ trình UNESCO. Nhưng khi nhìn lại, nhận thấy công tác bảo tồn và nhận thức về DS vẫn chưa thực tốt nếu không muốn nói nhiều nơi còn có những việc làm vô tình gây tổn hại tới di sản".
Chúng ta phải tạo ra những người quản lý có quan điểm, định hướng tiên tiến, tư duy, phương pháp quản lý văn hóa đúng. Còn nếu chạy theo giống như bên tiếp thị kinh tế thì sẽ chỉ làm hỏng văn hóa. PGS.TS Nguyễn Văn Huy (Hội Di sản văn hóaViệt |
Điển hình, hát Quan họ, sau 3 năm trở thành DS văn hóa phi vật thể của nhân loại đã thiếu đi cái "lúng la lúng liếng" của liền anh liền chị trong từng câu hát. Thế mới có chuyện, xây dựng kỷ lục 3.700 người hát Quan họ trong Hội Lim 2012. Theo GS Ngô Đức Thịnh, kỷ lục đó là hành động "phi quan họ nhất".
Cùng được thế giới vinh danh, sau 3 năm nỗ lực bảo tồn, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan đã đưa ra 3 cảnh báo cho Ca trù: Thứ nhất, số lượng nghệ nhân không còn nhiều, vốn DS về Ca trù cũng theo đó mà rơi rụng. Thứ hai, cộng đồng ngày càng ít cơ hội được tiếp cận với môn nghệ thuật này. Thứ ba, không gian biểu diễn của Ca trù ngày càng mất dần đi. Hiện chỉ còn không gian hát ca quán (vừa nghe hát vừa uống nước), vì thế nghệ thuật Ca trù rất dễ bị biến mất. Sau mỗi kỳ liên hoan Ca trù toàn quốc, người ta lại thấy nghệ nhân dần vắng bóng. Lớp trẻ vừa là đào nương vừa kiêm hát chèo, nên khi cất giọng trên sân khấu liên hoan Ca trù, người yêu nghệ thuật này không khỏi nản lòng. Thêm vào đó, hành động yêu DS dẫn đến việc cải biên DS, khiến không ít DS thế giới của Việt
Các quy tắc bảo vệ DS của UNESCO rất nghiêm ngặt. Trên giới thế có nhiều DS từng được công nhận rồi bị tước danh hiệu. Vì vậy, đứng trước thực trạng bảo tồn DS và cuộc đua danh hiệu hiện nay, không ai không lo ngại về khoảng cách giữa danh hiệu và việc bảo tồn DS.