Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Quốc hội thảo luận kinh tế-xã hội: Tại sao xả lũ đúng quy trình nhưng người dân vẫn bị bất ngờ?

Công Thọ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, ngày 3/11, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế-xã hội.

Cụ thể, các đại biểu thảo luận về các nhóm vấn đề:
Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2020; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2021 (trong đó có thảo luận một số nội dung liên quan các vấn đề về an ninh nguồn nước, quản lý an toàn hồ, đập và phát triển điện lực; báo cáo kết quả 03 năm thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng).
 Ngày 3/11, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế-xã hội
Kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm giai đoạn 2016-2020: phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, tài chính quốc gia, đầu tư công trung hạn.
Kết quả thực hiện Nghị quyết số 100/2015/QH13 phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020.
Dự kiến mục tiêu chủ yếu và một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025; chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và các kế hoạch: đầu tư công trung hạn, tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2021-2025.
Chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác để thực hiện Dự án hồ chứa nước sông Than, tỉnh Ninh Thuận, Dự án hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An.
Tại phiên thảo luận, các thành viên Chính phủ phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội phát biểu một số vấn đề liên quan.
Kiến nghị phát triển mô hình Spin-off

Mở đầu phiên thảo thuận, đại biểu Nguyễn Thị Lan (TP Hà Nội) đề xuất một số kiến nghị chính sách phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đặc biệt  xây dựng chính sách để phát triển mô hình Doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ (Spin-off) tại các trường đại học của Việt Nam.

"Spin-off" là mô hình doanh nghiệp khởi nguồn từ trường đại học để thương mại hóa các công nghệ nghiên cứu tại trường. Mô hình này đã thành công tại nhiều trường học lớn trên thế giới, hàng năm tạo ra khoảng 100-200 doanh nghiệp với doanh thu lớn. Tuy nhiên, tại Việt Nam, mô hình "Spin-off" chưa được chú ý.

Đại biểu Nguyễn Thị Lan để nghị cần rà soát hoàn thiện văn bản dưới luật liên quan để thúc đẩy thị trường KHCN, thương mại hóa như Luật Giáo dục đại học, Luật KH&CN… ; bổ sung chiến lược, quy hoạch phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, dự báo đổi mới công nghệ; có chính sách đột phá, thích hợp để huy động được đội ngũ đông đảo những người làm khoa học trong nước khoa học tham gia đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo, thu hút các nhà khoa học nước ngoài và Việt kiều.

 Đại biểu Nguyễn Thị Lan (TP Hà Nội)

Đại biểu Trần Văn Cường (đoàn Đồng Tháp) góp ý về việc quản lý phân bón, thuốc bảo vệ thực vật thời gian qua. Theo đại biểu, cử tri phản ánh tình trạng khá phức tạp về thuốc giả, phân bón kém chất lượng, lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… gây ô nhiễm môi trường, mất an toàn vệ sinh thực phẩm. Đặc biệt, ảnh hưởng tới tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Đại biểu cho rằng theo quy định của Bộ Nông nghiệp, hiện số lượng thuốc bảo vệ thực vật và tên thương phẩm thuốc bảo vệ thực vật quá nhiều, quản lý khó khăn. Chế tài với các vi phạm chưa đủ sức răn đe, một bộ phận người dân chưa nhận thức đầy đủ đã lạm dụng thuốc. Danh mục chất cấm chưa đồng bộ giữa các ngành, lĩnh vực.

Đại biểu kiến nghị đồng bộ giữa các ngành, lĩnh vực về kiểm soát các hoạt chất, hóa chất độc hại; tăng cường chế tài với các vi phạm; thí điểm áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc và kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc nông sản…

Một giải pháp quan trọng là thay đổi nhận thức người dân, để người dân nhận thức được tác hại của việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật; ý thức về giống nòi mai sau và sự phát triển bền vững của đất nước…

Không để đường sắt Cát Linh-Hà Đông sai hẹn đến lần thứ 9

Đại biểu Nguyễn Phi Thường (TP Hà Nội) nêu thực trạng triển khai các dự án đường sắt đô thị đang tồn tại nhiều vấn đề như dự án lớn, đầu tư lớn nhưng đội vốn, kéo dài, gây bức xúc, cần rút kinh nghiệm để không lặp lại các dự án sau.

Đại biểu cho rằng các dự án đường sắt đô thị cần phải gắn kết với không gian đô thị, đời sống đô thị để phát huy hiệu quả. Theo đại biểu, đô thị của Hà Nội và TP Hồ Chí Minh không theo định hướng phát triển hệ thống vận tải công cộng, phát triển theo quy luật kinh tế, mật độ đường rất thấp, nhiều khu phát triển tự phát, thiếu không gian đi bộ, vận tải công cộng không thể tiếp cận...

“Vì thế, bộ 3 rất đặc biệt là cảnh quan nhà phố; kinh tế vỉa hè; văn hóa xe máy có thể coi là khá đặc trưng của đô thị Việt Nam”, đại biểu bày tỏ.

Hiện nay các dự án đường sắt đô thị ít chú ý đến sự phát triển liên kết không gian đô thị, cho nên các dự án đường sắt đô thị dường như là hệ thống nhập khẩu, phép cộng thuần túy cho loại hình giao thông mới vào không gian đô thị.

Đại biểu đề nghị, Quốc hội, Chính phủ có cơ chế gỡ vướng quy hoạch, đầu tư tích hợp đường sắt đô thị gắn với tái cấu trúc đô thị cũ, phát triển khu mới như đô thị vệ tinh hoặc đô thị hai bên sông Hồng...

Hiện Việt Nam chưa có hệ thống quy chuẩn đường sắt đô thị nên việc nghiệm thu dự án khó khăn, phụ thuộc nhiều vào nhà đầu tư; ngoài ra để giảm chi phí, tăng tính chủ động, cần khẩn trường làm chủ công nghệ càng nhanh càng tốt...

 Đại biểu Nguyễn Phi Thường (TP Hà Nội)

Hiện các dự án triển khai bằng ngân sách Nhà nước hạn hẹp và ODA, đại biểu đề nghị Chính phủ giao cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu mô hình đường sắt đô thị tư nhân như ở Tokyo (Nhật Bản) để nhà đầu tư tư nhân tham gia đầu tư...

Nhấn mạnh dự án đường sắt Cát Linh-Hà Đông được cử tri quan tâm, đây là dự án do Bộ GTVT làm chủ đầu tư, Hà Nội là đơn vị tiếp nhận, thụ hưởng. Vừa qua, Bí thư Thành ủy Hà Nội làm việc với Bộ GTVT và thành lập tổ công tác tháo gỡ, tuy nhiên còn nhiều vướng mắc thuộc thẩm quyền Chính phủ, Quốc hội... Đại biểu cũng đề nghị Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành quan tâm chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc để Đường sắt Cát Linh-Hà Đông vận hành vào cuối năm 2021, không để sai hẹn về đích đến lần thứ 9.

Đại biểu lưu ý 3 kinh nghiệm, thứ nhất, cần đánh giá, rút kinh nghiệm các dự án ODA xây dựng đường sắt đô thị, thận trọng với các điều kiện vay, nhất là việc lựa chọn, chỉ định tổng thầu. Việc đầu tư đường sắt đô thị chỉ hiệu quả khi xây toàn tuyến chứ không phải một đoạn tuyến", đại biểu nói.

Nhiều bài học từ các dự án đường sắt đô thị

Tại hội trường, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể cho biết năm 2020, ngành GTVT được bố trí 40.000 tỷ đồng, đến ngày 30/10/2020, đã giải ngân hơn 29.000 tỷ đồng, tương đương 73%, cao hơn mức trung bình cả nước 13%.

Các dự án giao thông đường sắt đô thị được triển khai thời gian qua bộc lộ rất nhiều vấn đề, đặc biệt là chậm tiến độ. Những bài học được rút ra là quy hoạch phải đáp ứng yêu cầu phát triển, công tác chuẩn bị dự án đầu tư phải lựa chọn được công nghệ, nhà thầu tốt, bảo đảm mặt bằng sạch khi triển khai dự án...

Sắp tới Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với những TP. lớn để những dự án đường sắt đô thị khởi công mới tránh được tình trạng lặp lại như hiện nay, đây là hướng đột phá giải quyết ùn tắc giao thông tại các thành phố lớn

Giai đoạn 2021-2025, ngành GTVT có một số chương trình, nghiên cứu 7 tuyến đường cao tốc lớn, từ đó lựa chọn những đoạn tuyến quan trọng để đầu tư, nhằm nâng số km đường cao tốc hiện nay từ hơn 40 km lên hơn 300 km. Không có cao tốc thì thu hút đầu tư phát triển vùng ĐBSCL sẽ rất khó khăn.

Đánh giá lại toàn bộ tác động, mức độ an toàn của hệ thống hồ chứa, hồ thủy điện

Đại biểu Phan Thái Bình (tỉnh Quảng Nam) bày tỏ lời cảm ơn Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bộ ngành Trung ương, các địa phương, nhân dân cả nước đã chia sẻ với những khó khăn, mất mát của của đồng bào miền Trung, trong đó có tỉnh Quảng Nam, phải gánh chịu trong đợt bão lũ lịch sử vừa qua.

Đại biểu đề nghị Chính phủ, các bộ ngành quan tâm hỗ trợ người dân hỗ trợ vùng sạt lở làm nhà sàn ở miền núi, nhà chống lụt ở vùng trũng thấp, hầm trú bão.

Tổng rà soát toàn bộ cơ sở giáo dục tại vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lũ, kiên cố hóa các điểm trường vùng núi vì đây là nơi người dân tránh trú khi xảy ra bão, lũ.

Rà soát, đánh giá lại toàn bộ tác động, mức độ an toàn của hệ thống hồ chứa, hồ thủy điện, thông tin rộng rãi để người dân hiểu rõ.

Tỷ lệ che phủ rừng của Việt Nam là 42%

Trao đổi thêm về ý kiến một số địa biểu liên quan đến bảo vệ rừng, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Xuân Cường cho biết, năm 1990 cả nước có khoảng 9 triệu ha rừng, sau 30 năm chúng ta có 14,6 triệu ha, trong đó có 10,3 triệu ha rừng tự nhiên. Tỷ lệ che phủ rừng của Việt Nam là 42%, trong khi thế giới là 29%, đây là cố gắng vượt bậc cả hệ thống chính trị và toàn dân.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Xuân Cường 

Trong số 4,3 triệu ha rừng trồng, chúng ta đã sản xuất ra 30 triệu m3 nguyên liệu để xây dựng một ngành kinh tế công nghiệp về lâm nghiệp với 4.600 doanh nghiệp chế biến. Năm nay chúng ta có thể xuất khẩu tới 13 tỷ USD tiền lâm sản.

Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ luôn luôn có chính sách để bà con giữ 1 triệu ha rừng tốt hơn.

Bộ trưởng chứng minh: Trước đây các hộ khoanh nuôi bảo vệ rừng chỉ nhận được 50.000 đồng/ha/năm, bây giờ lên tới 250.000/ha. Đồng thời, Quốc hội yêu cầu thời gian tới phải nâng diện tích khoanh nuôi, bảo vệ rừng lên 2 triệu ha thì mới từng bước đảm bảo cho chất lượng khu vực 10,3 triệu ha rừng tự nhiên.

Cùng với đó, nhờ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, mỗi năm chúng ta cũng xã hội hóa thu được 30.000 tỷ đồng. Ngày 20/10/2020, Việt nam chính thức ký kết hợp tác về tín chỉ các bon từ rừng. Nhờ đó, chúng ta bán được 10 triệu m3 CO2, mỗi 1m3 CO2 là 5 USD.

“Thế giới công nhận Việt Nam tham gia vào sự phát triển bền vững, qua đó thu được hơn 1.000 tỷ đồng cho 6 tỉnh miền Trung. Đồng thời thể hiện Việt Nam quyết tâm đi theo con đường phát triển bền vững”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nói.

Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề phát triển rừng là trong 30 năm phát triển, rừng tự nhiên không thể phục hồi như ngày xưa bởi thời gian quá ngắn. Trong giai đoạn kháng chiến, đế quốc Mỹ đã rải 77 triệu lít thuốc hóa học hủy hoại 2 triệu ha rừng rự nhiên của miền Trung. Bởi vậy phục hồi rừng cần phải từng bước.

Đặt vấn đề về mục tiêu năm 2021 bao nhiêu là phù hợp?

Đại biểu Nguyễn Văn Chiến (Hà Nội) nhắc lại, tháng 11/2019, khi Quốc hội bấm nút thông qua kế hoạch năm 2020, Covid-19 vẫn còn là khái niệm xa lạ, đến nay trên thế giới đã có 31 triệu người mắc với hơn 1 triệu người tỷ vong, đưa kinh tế toàn cầu suy thoái trầm trọng và ảnh hưởng nặng nề nghiêm trọng tới kinh tế - xã hội Việt Nam.

Trong bối cảnh đó, kết quả thực hiện mục tiêu kép của Việt Nam tuy còn khiêm tốn nhưng rất đáng ghi nhận, con số tăng trưởng từ 2 đến 3% GDP là con số tuyệt vời trong bối cảnh thế giới như trên. Kinh tế phát triển ổn định, GDP tăng trưởng dương, cán cân thương mại 9 tháng thặng dư 17 tỷ USD, dòng vốn FDI tăng trở lại, vốn giải ngân và vốn cam kết đều tích cực.

Kết quả đạt được trong việc vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế là nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ.

Đặt vấn đề về mục tiêu năm 2021 bao nhiêu là phù hợp, đại biểu cho rằng, Chính phủ đặt ra kế hoạch phát triển năm 2021 với mục tiêu kép trong trạng thái bình thường mới, trong đó chỉ tiêu tăng GDP từ 6 đến 6,5% là hợp lý và hoàn toàn có thể đạt được.

  ĐB Quốc hội Nguyễn Văn Chiến (đoàn Hà Nội)

Đại biểu kiến nghị, bên cạnh chính sách tiền tệ đã được triển khai tốt thì cầm thực hiện tốt hơn chính sách tài khóa. Nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu năm 2020 và chuẩn bị giai đoạn phục hồi từ 2021.

Đại biểu cho rằng, năng suất lao động vẫn là vấn đề cần quan tâm, nhưng tăng năng suất lao động phụ thuộc nhiều vào nhiều yếu tố như ứng dụng công nghệ, nâng cao trình độ người lao động. Đại biểu đề nghị phát huy các nguồn lực, hoàn thiện thể chế, quy định, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, hoàn chỉnh chính sách an sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chú trọng chính sách việc làm, tăng lương…

Tại sao xả lũ đúng quy trình nhưng người dân vẫn bị bất ngờ?

Đại biểu Mai Sỹ Diến (Thanh Hóa) cho rằng, việc bảo đảm an toàn cho các công trình thủy điện, hồ đập thủy lợi ngày càng gặp nhiều thách thức do những hệ thống bậc thang thủy điện với hồ chứa lớn trong mùa mưa 2016 -1017 phải xả lũ khẩn cấp để bảo đảm an toàn hồ đập tạo nên sự cố lũ chồng lũ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều vùng hạ lưu. Năm 2018 – 2019 lại xảy ra hạn hán, lượng nước thiếu hụt tại các hồ chứa thủy điện, việc đảm bảo cấp nước cho nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.

 Đại biểu Quốc hội Mai Sỹ Diến phát biểu

Việc tuân thủy quy trình vận hành hồ chứa có nhiều bấp cập, như khi có tình trạng khẩn cấp quyền vận hành chuyển giao từ chủ đập sang cấp có thẩm quyền, nhưng tại sao xả lũ đúng quy trình nhưng người dân vẫn bị bất ngờ, thiệt hại về sản xuất? Điều này cần câu trả lời của Bộ trưởng Bộ NN và PTNT, Bộ trưởng Bộ Công thương về quy trình quản lý như thời gian qua.

Theo đại biểu, bản chất vận hành, điều tiết, cắt giảm lũ hay xả lũ là giải quyết vấn đề an toàn hồ đập, bảo đảm an toàn vùng hạ lưu cho người dân và sử dụng hiệu quả nguồn nước cho ngành điện? Đặt lợi ích nào lên trên cũng là câu hỏi của cử tri, đại biểu dân cử đến cơ quan chức năng nhằm bảo đảm tính minh bạch, trách nhiệm trong công tác vận hành.