Việc chậm trễ giải ngân vốn đầu tư công ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng, trong khi tỷ lệ và nghĩa vụ vay trả nợ công ngày càng tăng cao. Ngoài ra, giải ngân chậm cũng khiến Chính phủ phải gánh lãi vay của dân, dự báo hết năm 2017, nợ công sẽ tăng lên mức 65% GDP, chạm trần mức Quốc hội đề ra.
Nhớ lại tại cuộc họp của Tổ giải ngân vốn đầu tư công của Chính phủ những tháng gần cuối năm 2016, các thành viên đã tỏ ra sốt ruột khi tốc độ giải ngân trái phiếu Chính phủ gần hết năm mới chỉ đạt hơn 50% kế hoạch. Cũng vào thời điểm đó, với sự vào cuộc chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, tốc độ giải ngân vốn đầu tư công đã được đẩy nhanh hơn. Và đến hết tháng 12/2016, tỷ lệ giải ngân đạt 81,6% kế hoạch năm. Sang năm 2017, ngay từ đầu năm, các cơ quan hữu quan phát đi tín hiệu sẽ siết chặt quản lý đầu tư công.
Dường như có một nghịch lý, khi một mặt các cơ quan chức năng yêu cầu siết chặt đầu tư công, mặt khác lại sốt ruột khi tốc độ giải ngân chậm. Còn các bộ, ngành và địa phương thì cố gắng có được chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư nhưng khi được giao vốn lại loay hoay với việc “tiêu” những đồng vốn được giao. Tuy nhiên, cũng có thể thấy, bên cạnh những vướng mắc do các quy định của Luật Đầu tư công, thời gian qua đã được chỉ ra thì việc một số bộ ngành, địa phương chưa thực hiện nghiêm các quy định về quản lý đầu tư công. Còn tình trạng tập trung hoàn thiện các thủ tục đầu tư vào các tháng cuối năm là nguyên nhân không nhỏ dẫn đến tiến độ giải ngân thấp thời gian qua. Bên cạnh đó là những nguyên nhân từ việc chuẩn bị dự án chưa tốt, phê duyệt chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư dự án không sát thực tế, chậm trễ trong GPMB, nhà thầu không đủ năng lực thi công... Việc phân cấp thực hiện đầu tư công hiện nay cũng đã gắn với phân cấp về nguồn tài chính. Có hai nguồn, một là nguồn từ T.Ư, hai là nguồn khai thác tại chỗ ở địa phương. Tuy nhiên, trong bối cảnh đại đa số các tỉnh, TP chưa tự cân đối được ngân sách thì đa số các dự án đầu tư ở địa phương đều phải trông chờ vào nguồn từ trên xuống.
Từ những thực tế trên cho thấy, mặc dù Luật Đầu tư công đã tạo một bước tiến lớn trong việc siết chặt hiệu quả đầu tư công cũng như tiến tới chấm dứt cơ chế xin -cho, nhưng thực tế, trong nhiều trường hợp, việc xin chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư vẫn chưa thực sự xuất phát từ hiệu quả kinh tế. Từ đó dẫn đến nhiều hệ lụy, vì nhiều lý do khác nhau, khi dự án không suôn sẻ, hiệu quả kinh tế không thực sự rõ ràng, năng lực của cơ quan thực hiện không xứng tầm, dự án có thể bị đình trệ ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân.
Câu chuyện đầu tư công gắn liền với nợ công luôn được Chính phủ và cả xã hội quan tâm. Chính vì thế cùng với những thay đổi trong bố trí, phân bổ nguồn lực cũng cần giám sát sát sao việc sử dụng nguồn vốn cho hiệu quả, đến đúng địa chỉ là việc làm cấp thiết hiện nay nhằm hỗ trợ tốt hơn cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.