Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Thông báo Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII

Theo TTXVN/VIETNAM+
Chia sẻ Zalo

Ngày 14/10, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra sau sáu ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc.

Ban Chấp hành Trung ương đã ra Thông báo Hội nghị. Báo Kinh tế & Đô thị trân trọng giới thiệu Toàn văn Thông báo:
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, từ ngày 9-14/10, tại Thủ đô Hà Nội, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã họp để thảo luận, cho ý kiến về tình hình kinh tế-xã hội năm 2016, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2017; một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ; và một số vấn đề quan trọng khác.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì, phát biểu khai mạc và bế mạc Hội nghị.
1. Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, thảo luận Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội năm 2016, dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2017 và Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2016, dự toán ngân sách nhà nước năm 2017 của Ban cán sự đảng Chính phủ và thống nhất nhận định: Năm 2016, năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, bên cạnh thuận lợi, nước ta đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức gay gắt.
Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, kinh tế-xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt kết quả khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát; các cân đối lớn cơ bản được bảo đảm, tăng trưởng kinh tế đạt mức khá, tuy thấp hơn kế hoạch nhưng là mức cao trong khu vực và trên thế giới; sản xuất kinh doanh tiếp tục phát triển; khu vực kinh tế tư nhân có bước khởi sắc.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh. Văn hóa, xã hội có tiến bộ; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống vật chất và tinh thần của người dân tiếp tục được nâng lên. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được chú trọng hơn.
Cải cách hành chính, môi trường đầu tư, kinh doanh, năng lực cạnh tranh được cải thiện. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chỉ đạo quyết liệt. Quốc phòng, an ninh được tăng cường.
Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, lĩnh vực kinh tế còn nhiều hạn chế: Tăng trưởng GDP, xuất khẩu chín tháng đạt thấp so với cùng kỳ. Giải ngân vốn đầu tư công chậm, thâm hụt ngân sách, nợ công còn ở mức cao; tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, không bảo đảm an toàn thực phẩm... còn diễn biến phức tạp, xảy ra nhiều nơi. Tái cơ cấu trong các ngành, lĩnh vực còn chậm, nợ xấu ngân hàng, nợ đọng xây dựng cơ bản còn lớn, chậm được xử lý căn bản và triệt để, gặp nhiều khó khăn, kết quả đạt thấp.
Sự cố môi trường biển nghiêm trọng đã tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh, du lịch và đời sống nhân dân một số tỉnh miền Trung. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu. Chất lượng giáo dục, nhất là đại học, dạy nghề chuyển biến chậm, chưa gắn với nhu cầu xã hội. Tình hình tội phạm, trật tự, an toàn xã hội trên một số lĩnh vực, địa bàn diễn biến phức tạp. Việc bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng còn nhiều hạn chế.
Ban Chấp hành Trung ương đã phân tích, chỉ rõ các nguyên nhân của hạn chế, yếu kém, nhất là nguyên nhân chủ quan để làm cơ sở khắc phục.
Trên cơ sở dự báo tình hình kinh tế thế giới và trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã định hướng mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu năm 2017. Trong đó, mục tiêu tổng quát là: Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo chuyển biến rõ rệt về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, khuyến khích khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế. Bảo đảm an sinh xã hội và chăm lo đời sống nhân dân. Phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai; tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Để đạt được mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong năm 2017, Ban Chấp hành Trung ương xác định cần thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: (1) Ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; (2) Tập trung tháo gỡ khó khăn, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; (3) Tái cơ cấu nền kinh tế một cách thực chất, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; (4) Phát triển văn hóa, xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; (5) Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, tăng cường quản lý tài nguyên; (6) Xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương; (7) Giữ vững độc lập, chủ quyền, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; (8) Thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; (9) Đẩy mạnh thông tin truyền thông, tạo đồng thuận xã hội.
Ban Chấp hành Trung ương thống nhất ban hành Kết luận về tình hình kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước năm 2016, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2017.
2. Ban Chấp hành Trung ương thảo luận, cho ý kiến về Đề án Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Ban Chấp hành Trung ương nhận định: Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và tầm quan trọng đặc biệt, quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Thời gian qua, chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng đã được cụ thể hoá, thực hiện đạt được kết quả bước đầu. Mô hình tăng trưởng bước đầu có sự chuyển đổi, kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; năng suất lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP), năng lực cạnh tranh quốc gia được cải thiện.
Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng ở nước ta còn chậm được đổi mới, về cơ bản vẫn theo mô hình cũ; tăng trưởng vẫn dựa chủ yếu vào tăng đầu tư và tăng số lượng lao động, chưa dựa nhiều vào tăng năng suất lao động, ứng dụng khoa học-công nghệ, đổi mới tổ chức sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Sắp tới, cần nhận thức, quán triệt đầy đủ và sâu sắc hơn nữa quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về vấn đề này, coi đây là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Mô hình tăng trưởng mà nước ta đổi mới, xây dựng là mô hình tăng trưởng ngày càng dựa nhiều hơn vào năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo tín hiệu và cơ chế thị trường; phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tài năng, trí sáng tạo của con người và mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước; tạo cơ hội cho mọi người dân tham gia và cùng hưởng lợi từ tăng trưởng; chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ gìn môi trường sinh thái.
Tùy tình hình thực tế của từng ngành, lĩnh vực và địa phương mà kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu, trong đó, lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo. Chuyển dần từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu sang tăng trưởng dựa đồng thời vào cả đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Chuyển dần từ dựa vào gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào của sản xuất sang dựa vào tăng năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo. Khai thác và phát huy tối đa nội lực kết hợp với thu hút và sử dụng hiệu quả ngoại lực.
Ban Chấp hành Trung ương quyết định ban hành Nghị quyết về Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
3. Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến về Đề án Thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Ban Chấp hành Trung ương thống nhất nhận định từ khi nước ta trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế đã đem lại những thành tựu quan trọng trong tất cả các lĩnh vực, nổi bật là: (1) Là một trong những động lực quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế; (2) Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước; (3) Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; (4) Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường; (5) Tăng cường quốc phòng, an ninh quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia; (6) Củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
So với khi nước ta trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hiện nay, tình hình trong nước, khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi, đang tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Song, thực tế thời gian qua và nhiều phân tích, dự báo cho thấy, việc thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới sẽ tạo ra cơ hội mở rộng, đa dạng hoá thị trường với mức ưu đãi cao, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, mạng lưới sản xuất toàn cầu; góp phần tích cực vào quá trình đổi mới đồng bộ và toàn diện, khơi dậy tiềm năng của đất nước và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân.
Nước ta cũng có cơ hội tham gia sâu hơn vào quá trình định hình các định chế, cơ chế, cấu trúc khu vực và quốc tế; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, lợi ích của các tổ chức, cá nhân; bảo đảm độc lập, tự chủ, củng cố và duy trì môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, việc thực hiện các cam kết quốc tế mới cũng sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức không chỉ về kinh tế mà còn cả về chính trị, xã hội. Sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhiều ngành, doanh nghiệp và sản phẩm của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn. Việc thực hiện các cam kết sâu rộng và cao hơn, nhất là đáp ứng yêu cầu nội luật hoá các cam kết nếu không được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ, có lộ trình, bước đi phù hợp thì sẽ có tác động tiêu cực đến quá trình đổi mới, hoàn thiện thể chế, giải quyết những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Việc tự do hóa di chuyển lao động qua biên giới theo cam kết trong Hiệp định hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, thực hiện các tiêu chuẩn cơ bản về lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cũng đặt ra những thách thức mới không chỉ đối với sự quản lý của Nhà nước mà còn ảnh hưởng đến ổn định chính trị-xã hội, vai trò và hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam...
Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ qua lại và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội có thể trở thành thách thức nếu không được tận dụng kịp thời. Thách thức có thể biến thành cơ hội nếu chúng ta chủ động ứng phó thành công. Vì vậy, khi ký kết, tham gia và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cần phải giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Kiên định mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia-dân tộc, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi.
Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp và đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu; cần tập trung khuyến khích, tạo điều kiện cho sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nhân, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam. Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật; chủ động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực hiện các cam kết, nhất là trong những lĩnh vực liên quan đến ổn định chính trị-xã hội.
Không ngừng chăm lo xây dựng, nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng tự vệ của quốc gia, các ngành, lĩnh vực và các tổ chức, cá nhân Việt Nam trực tiếp tham gia hội nhập quốc tế. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị-xã hội, đặc biệt là công đoàn, phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
Trong 5-10 năm tới, cần tập trung ưu tiên xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp thực hiện các thoả thuận đã ký kết, đáp ứng yêu cầu bảo đảm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế gắn với giữ vững ổn định chính trị-xã hội. Trước hết, phải tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân, nhận thức đầy đủ, đúng đắn về cơ hội và thách thức từ việc thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; không ảo tưởng, mất cảnh giác và cũng không lo lắng thái quá, dẫn đến thiếu sự chủ động, tự tin cần thiết.
Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định ban hành Nghị quyết về thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
4. Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến về Đề án Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Ban Chấp hành Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, "tự diễn biến," "tự chuyển hóa." Trong đó, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ hoạ theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân.
Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến," "tự chuyển hoá" trong nội bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể.
Quản lý cán bộ, đảng viên còn lỏng lẻo. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa được coi trọng đúng mức, chậm đổi mới, kém hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi chưa thường xuyên, không nghiêm túc. Chưa phát huy đầy đủ, hiệu quả vai trò của nhân dân trong việc giám sát, phản biện, góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thông qua Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và các hình thức khác.
Về nhiệm vụ, giải pháp, Ban Chấp hành Trung ương thống nhất phải tiến hành đồng bộ nhiều công việc cụ thể, thiết thực, tập trung vào bốn nhóm: Về giáo dục chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; về cơ chế, chính sách; về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội. Chú trọng nêu gương những người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái. Đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, thói ích kỷ, vụ lợi, "lợi ích nhóm."
Rà soát, hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; công tác cán bộ, công tác kiểm tra; công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của báo chí, của công luận.
Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt nhấn mạnh muốn Nghị quyết này đi vào cuộc sống, tạo ra chuyển biến rõ rệt thì cả hệ thống chính trị phải vào cuộc. Từng tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ trách nhiệm của mình trước nhân dân, trước Đảng để tự giác thực hiện. Ở đây, sự gương mẫu của Ban Chấp hành Trung ương là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Từng đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, từng đồng chí đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp phải tự giác, gương mẫu thực hiện nghị quyết, nói đi đôi với làm, chỉ đạo quyết liệt với quyết tâm rất cao, sự nỗ lực rất lớn.
Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
5. Ngoài các vấn đề nêu trên, tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, nhân dân, đất nước, đã xem xét kỹ lưỡng, toàn diện các vấn đề liên quan đến việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận; nhất trí cao với Tờ trình của Bộ Chính trị. Đồng thời, giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ phối hợp với Đảng đoàn Quốc hội tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, hoàn thiện báo cáo trình Quốc hội xem xét, quyết định.
6. Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tăng cường đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.