Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nhằm khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững

KINHTEDOTHI.VN
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có bài viết tựa đề "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nhằm khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững". Báo Kinh tế & Đô thị trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Thủ tướng.

Bất cứ quốc gia - dân tộc nào muốn trở nên thịnh vượng đều phải huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để phục vụ cho phát triển. Đối với Việt Nam, để hoàn thành tốt các mục tiêu Đại hội XII của Đảng đã đề ra và tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong thập niên tới đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy cũng như hành động một cách quyết liệt nhằm khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
Thực tiễn hơn ba thập niên đổi mới đất nước cho thấy, mỗi khi nguồn lực của đất nước được giải phóng tối đa và sử dụng có hiệu quả thì tạo được thành tựu bứt phá trong phát triển. Ngược lại, những thời điểm nguồn lực không được khai thông, các tiềm năng, lợi thế không được phát huy đầy đủ, khi đó nền kinh tế bị rơi vào trì trệ, suy giảm động lực phát triển.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, với hành trình hơn 2/3 chặng đường của toàn bộ nhiệm kỳ, chúng ta đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn thuộc tốp đầu các nước trong khu vực và thế giới, mức sống và chất lượng sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt, sức mạnh tổng hợp quốc gia được tăng cường, tạo thế và lực mới đưa đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Thời gian còn lại của nhiệm kỳ đang dần rút ngắn, tình hình thế giới và khu vực lại biến động phức tạp, khó lường.
Vì vậy, chúng ta không được chủ quan, tự mãn với thành tích đạt được, phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, phát huy đầy đủ các động lực vật chất và tinh thần, tạo sức bật mới để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ toàn nhiệm kỳ và tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong thập niên tới. Để thực hiện tốt nhiệm vụ tổng thể đó, cần tập trung vào mấy định hướng lớn sau đây:
1- Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, xác định đúng các hướng lựa chọn ưu tiên để khai thác và giải phóng tối đa, huy động, sử dụng có hiệu quả các loại nguồn lực gắn với phát triển ngành, nghề mới trên cơ sở nắm bắt, tận dụng tối đa cơ hội mở ra từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0).
Những năm gần đây, chúng ta đã thực hiện một cách quyết liệt việc đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển từ mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, vốn đầu tư và lao động hướng mạnh sang mô hình tăng trưởng sử dụng tổng hợp, có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế, nhất là coi trọng nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. Nhiều giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế đã được triển khai thực hiện trên thực tế.
Chúng ta đều biết, mô hình tăng trưởng đóng vai trò quyết định đến phương thức và biện pháp lựa chọn thứ tự ưu tiên trong khai thác, huy động và sử dụng từng loại nguồn lực. Đa số các quốc gia trên thế giới đều mong muốn áp dụng mô hình tăng trưởng dựa trên tri thức và khoa học - công nghệ, năng suất lao động xã hội cao, các nguồn lực sáng tạo được giải phóng tối đa thay cho mô hình dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên và mở rộng quy mô sản xuất một cách giản đơn, năng suất lao động thấp. Hầu hết các quốc gia đang phát triển, trong những giai đoạn đầu, do điều kiện khách quan, nên thường lựa chọn mô hình tăng trưởng dựa trên lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên, xem đây là những nguồn lực quan trọng để tích lũy ban đầu, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo thời gian, tài nguyên hóa thạch dần trở nên cạn kiệt, lao động giá rẻ mất đi lợi thế, những nước không chuyển đổi thành công sang mô hình tăng trưởng dựa trên tri thức và khoa học - công nghệ thường rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Còn những quốc gia chủ động chuyển sang mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, kỹ năng quản lý tốt, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, thì tạo được sự bứt phá trong phát triển, vươn lên trở thành nước công nghiệp mới. Do đó, việc xác định đúng đắn mô hình tăng trưởng và lựa chọn hướng ưu tiên chính xác trong khai thác, huy động và sử dụng nguồn lực hiệu quả gắn với giải pháp phù hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để tạo động lực mới cho phát triển, đẩy nhanh quá trình xây dựng quốc gia thịnh vượng.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra những yêu cầu mới đối với quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng ở nước ta, mở ra cơ hội cho Việt Nam có thể bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới, bảo đảm không lỡ nhịp trong phát triển. Việc tận dụng được thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ cho phép biến nhiều nguồn tài nguyên từ dạng tiềm năng trở thành động năng cho phát triển, như năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng hải lưu, năng lượng sóng biển, năng lượng địa nhiệt, năng lượng sinh khối,... cũng như các tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh vật khác. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn cho phép chúng ta biến những yếu tố trước đây là phế thải, như nước thải, rác thải rắn, khí thải các-bon,... trở thành nguồn đầu vào cho phát triển công nghiệp môi trường, từng bước hình thành nền kinh tế tuần hoàn thay thế cho nền kinh tế tuyến tính vốn gây nhiều hệ lụy khiến khả năng chịu tải của môi trường vượt quá ngưỡng cân bằng trước sức sản xuất và tiêu thụ gia tăng cấp số nhân của con người. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy hình thành nền kinh tế số mà ở đó tài nguyên số đóng vai trò cốt lõi cho phát triển và khai thác hạ tầng số, thị trường số, dịch vụ số, tạo nên những mô hình sản xuất kinh doanh hoàn toàn mới vượt khỏi quy luật kinh doanh thông thường. Trí tuệ nhân tạo, in-tơ-nét kết nối vạn vật, vật liệu thông minh, người máy thế hệ mới... được ứng dụng phổ biến làm cho lao động giá rẻ đang mất dần lợi thế cạnh tranh.
Để tránh rơi vào nguy cơ “bẫy thu nhập trung bình”, duy trì và thúc đẩy đà tăng trưởng, chúng ta phải nắm bắt, tận dụng tốt các cơ hội đang mở ra từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lấy động lực tăng trưởng chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới sáng tạo thay thế dần cho các nguồn lực đầu vào truyền thống ngày càng khan hiếm hoặc mất đi lợi thế.
Khoa học - công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp - như C. Mác đã từng dự báo, là nguồn lực được các quốc gia ưu tiên lựa chọn làm hướng đột phá cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Chúng ta phải tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bằng tinh thần chủ động và sáng tạo, nội dung cốt lõi là thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả các ngành, lĩnh vực; thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trọng tâm là phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số. Cần tập trung hoàn thiện thể chế, pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân, trước hết là doanh nghiệp chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có chính sách ưu đãi phát triển các ngành, nghề kinh doanh mới thể hiện tinh thần nắm bắt, tiến kịp và vượt trước một số lĩnh vực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo. Tạo thuận lợi cho hoạt động thu hút vốn, chuyển nhượng cổ phần, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp công nghệ, các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào kinh doanh khởi nghiệp sáng tạo. Xây dựng chiến lược quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ, ưu tiên phát triển doanh nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ cao thiết kế, sáng tạo và sản xuất tại Việt Nam. Có cơ chế định giá, bảo hộ, bảo vệ quyền tài sản hình thành từ quyền sở hữu trí tuệ - cơ sở cho tài sản đặc biệt này có thể mua bán, góp vốn, thế chấp để vay vốn khởi nghiệp, kinh doanh công nghệ. Nhà nước có chính sách ưu tiên đặt hàng sản xuất và mua các sản phẩm công nghệ số do doanh nghiệp Việt Nam sản xuất. Phát triển mạnh mẽ hạ tầng số, từ phát triển hạ tầng băng thông rộng, hạ tầng dữ liệu số, hạ tầng thanh toán số, đến hạ tầng bảo đảm an ninh, an toàn mạng... Có chính sách phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, xây dựng và phát triển trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ lõi, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học và viện nghiên cứu làm chủ thể nghiên cứu mạnh. Tập trung phát triển các ngành và công nghệ ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao, gắn kết chặt chẽ với hợp tác quốc tế về phát triển khoa học - công nghệ(1).
Nguồn nhân lực chất lượng cao bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đến khả năng huy động, khai thác, sử dụng có hiệu quả các loại nguồn lực khác, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Đổi mới mô hình tăng trưởng trước hết phải tạo được bước đột phá trong chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm cả nhân lực lãnh đạo, quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và lao động có kỹ năng. Cần phải đổi mới nội dung, phương thức giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, từ các bậc học nền tảng, đào tạo nghề đến giáo dục đại học. Đặc biệt coi trọng đào tạo lại và nâng cao kỹ năng của đội ngũ cán bộ, công chức và người lao động tương thích, đủ năng lực vận hành chính quyền điện tử và tham gia nền sản xuất thông minh, kinh doanh dựa trên công nghệ hiện đại. Lấy đánh giá của doanh nghiệp làm thước đo cho đổi mới chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực thuộc kỹ thuật số, chuyển từ xây dựng kế hoạch đào tạo theo chỉ tiêu hành chính từ trên xuống sang xây dựng kế hoạch đào tạo mang tính tự chủ của từng trường dựa trên cơ sở khảo sát nhu cầu thị trường lao động và đối thoại với doanh nghiệp. Khuyến khích và ưu đãi các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp công nghệ trực tiếp tham gia đào tạo các sản phẩm phục vụ nền kinh tế số. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao, không phân biệt người Việt Nam ở trong nước hay định cư ở nước ngoài, kể cả thu hút chuyên gia quốc tế đến làm việc tại Việt Nam.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta và kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, nguồn lực con người chỉ phát huy đầy đủ khi tác động trúng lợi ích và khơi dậy được hoài bão, khát vọng dân tộc, tạo thành động lực thường trực để mỗi cá nhân nỗ lực phấn đấu vì sự thịnh vượng, phồn vinh của đất nước và khẳng định danh dự bản thân. Xây dựng khát vọng phát triển phải bằng những cơ chế, chính sách cụ thể, rõ ràng, bảo đảm quyền bình đẳng về cơ hội phát triển giữa các thành viên trong xã hội, làm cho người hiền tài thật sự được trọng dụng, tôn vinh; xóa bỏ mọi định kiến xã hội hoặc chủ nghĩa bình quân cản trở trọng dụng nhân tài. Lợi ích cá nhân là động lực thường trực cho mỗi người phấn đấu vươn lên, nhưng lợi ích mỗi thành viên của xã hội phải thuận chiều với lợi ích của quốc gia - dân tộc thì mới tạo nên sức mạnh tổng hợp, được bảo đảm bằng hệ thống luật pháp công bằng, không thiên vị, làm cho người hiền tài luôn khẳng định được năng lực và nhân phẩm của chính mình, được xã hội trọng dụng, tôn vinh. Đi đôi với tôn trọng lợi ích kinh tế, phải khơi dậy được động lực văn hóa - tinh thần, đó là khát vọng phát triển, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, đức hy sinh, cống hiến. Nếu như lợi ích kinh tế tạo ra động cơ để thúc đẩy con người hành động thỏa mãn nhu cầu của chính họ và đóng góp cho xã hội, thì động lực văn hóa - tinh thần lại làm cho mỗi con người luôn vượt lên lợi ích cá nhân để khẳng định các giá trị theo đuổi, rồi hành động một cách tự giác, tự nguyện bằng tất cả sự xả thân vì danh dự, nhân phẩm, dấn thân cho dân tộc, phụng sự nhân dân bằng tất cả năng lực nội sinh vốn có.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, phải có cơ chế để duy trì, nuôi dưỡng và phát huy động lực văn hóa - tinh thần, khát vọng phát triển trong mỗi người dân bằng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự cường. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phải chú trọng giáo dục khát vọng dân tộc, thúc đẩy liêm chính, nêu cao sứ mạng phục vụ người dân và doanh nghiệp; xây dựng biểu tượng trong mỗi giai tầng xã hội để làm gương, tạo ảnh hưởng lan tỏa rộng rãi, gắn với thực hiện tốt quy định nêu gương, nhất là gương người hiền tài, gương “người tốt, việc tốt”. Tôn vinh, khen thưởng kịp thời những người xứng đáng, không phân biệt khu vực công hay khu vực tư, phải khắc phục các định kiến cũ, chủ nghĩa bình quân khiến cho tài năng bị thui chột, triệt tiêu các động lực phát triển. Phải xem việc phát hiện và trọng dụng người hiền tài là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị gắn với đổi mới công tác cán bộ, phát huy dân chủ rộng rãi, để nguồn lực quý giá bậc nhất này không bị bỏ sót và được sử dụng có hiệu quả phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên sử dụng có hiệu quả nguồn lực tổng hợp, trước hết là dựa vào tri thức và khoa học - công nghệ, không thể tiến hành nóng vội, chủ quan, bất chấp trình độ phát triển, mà phải bằng các giải pháp khả thi, lộ trình phù hợp, tính toán đầy đủ các điều kiện kèm theo. Phải nắm vững quan điểm, chủ trương của Đảng: Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng và ngày càng dựa nhiều hơn vào các nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, trí sáng tạo của con người Việt Nam và thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước. Tuỳ theo tình hình thực tế của từng ngành, lĩnh vực và địa phương mà kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu, trong đó lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo. Chuyển dần từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu sang tăng trưởng dựa đồng thời vào cả đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước; từ dựa vào gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào của sản xuất sang dựa vào tăng năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo(2). Khai thác và phát huy tối đa nội lực kết hợp với thu hút và sử dụng hiệu quả ngoại lực, nhất là nắm bắt xu hướng dịch chuyển ngành nghề gắn với dịch chuyển nguồn lực trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay để tranh thủ, tận dụng tối đa các cơ hội.
2- Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, bảo đảm cho nguồn lực tự nhiên (đất đai, nước, khoáng sản...) được khai thông, giải phóng tối đa, vận hành thông suốt, phân bổ và sử dụng có hiệu quả theo cơ chế thị trường để phục vụ cho trước mắt và tính toán cả dự trữ cho tương lai.
Những năm qua, nhờ lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt mà chúng ta đã khai thông được nhiều nguồn lực của đất nước vốn bị “đóng băng” trong cơ chế kinh tế cũ, tranh thủ được nguồn lực bên ngoài gắn với chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phục vụ cho các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhờ đó đã giành được nhiều thành tựu quan trọng.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn thẳng vào thực tế và khách quan thấy rằng, nhiều nguồn lực của nước ta vẫn chưa được sử dụng có hiệu quả. Không ít nguồn lực ở dạng tiềm năng chưa chuyển thành động năng, chậm được vốn hóa để đưa vào phục vụ sản xuất. Cơ chế phân bổ nguồn lực còn nhiều bất cập, làm cho chủ thể có khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực nhiều khi thiếu cơ hội tiếp cận, còn chủ thể nắm giữ nguồn lực lại sử dụng kém hiệu quả, gây lãng phí. Nghịch lý trên đây phải nhanh chóng được khắc phục. Có thể nêu nhiều ví dụ về tình trạng này, như không ít địa phương có hiện tượng để ruộng đất hoang hóa, tình trạng manh mún ruộng đất chậm được cải thiện; thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp chậm hình thành; thất thoát nguồn thu ngân sách đối với giá trị gia tăng hình thành sau quy hoạch đất đai; nguồn nước sử dụng chưa tiết kiệm và nhiều nơi bị ô nhiễm nặng; tài nguyên khoáng sản bị khai thác quá mức; dịch chuyển lao động nông thôn - đô thị chưa thông suốt; chưa cân bằng giữa huy động nguồn vốn qua thị trường tín dụng ngân hàng và thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp để khai thác tối đa nguồn vốn trong xã hội... Bài học phát triển của thế giới cho thấy, một quốc gia muốn trở nên thịnh vượng thì nguồn lực không thể chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, mà phải biến thành động năng, cần được vốn hóa; phải khắc phục cho được tình trạng sử dụng kém hiệu quả nguồn lực, bởi nguồn lực luôn có giới hạn, sử dụng cho công việc này sẽ không thể sử dụng cho công việc khác.
Để khai thông, giải phóng tối đa các nguồn lực, trong những năm tới, cần nắm vững và quán triệt sâu sắc quan điểm Đại hội XII của Đảng đã đề ra là “thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất”, “các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”(3). Phải tháo gỡ các “nút thắt” của cơ chế, chính sách khiến cho không ít nguồn lực chưa được khai thông, chậm được vốn hóa, cốt lõi là bảo đảm vai trò chủ yếu của thị trường trong huy động và phân bổ nguồn lực, chống các hiện tượng “bao cấp”, “phi thị trường” còn tồn tại dưới hình thức này hay hình thức khác, nhất là bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhờ đó mà nguồn lực đến đúng địa chỉ có khả năng sử dụng hiệu quả. Phải tập trung hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, khung pháp lý điều chỉnh hạn điền, thực hiện tích tụ tập trung ruộng đất gắn với đổi mới mạnh mẽ hình thức tổ chức sản xuất và cơ cấu lại ngành nông nghiệp(4); phát triển thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp; chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với đất nhà nước cho thuê trả hằng năm, đất ngập mặn do biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đô thị. Thực hiện nghiêm quy định đấu giá quyền sử dụng đất, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước đối với giá trị gia tăng hình thành sau quy hoạch, sử dụng hiệu quả hơn công cụ thuế hoặc các hình thức phí có tính chất thuế, nhằm hạn chế tình trạng để đất hoang hóa, lãng phí, không đưa vào sử dụng trong thời gian dài. Xử lý có hiệu quả những bất cập trong quản lý, sử dụng đất của các công ty nông, lâm nghiệp, nhất là tình trạng lấn chiếm, chuyển nhượng, chuyển mục đích, cho thuê, cho mượn, giao khoán trái pháp luật; hoặc việc một số nông, lâm trường “phát canh thu tô” trong khi người dân địa phương không có đất sản xuất. Đẩy mạnh thăm dò, đánh giá tiềm năng nước mặt và nước ngầm; rà soát, điều chỉnh quy hoạch ngành cấp nước (cả nước sinh hoạt, thủy lợi và thủy điện) trên quan điểm tiết kiệm, hiệu quả, tính toán tới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, có biện pháp lưu giữ và sử dụng tiết kiệm nguồn nước, tránh lãng phí, ngăn chặn và xử lý kiên quyết tình trạng gây ô nhiễm nguồn nước, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế để bảo vệ và khai thác nguồn nước xuyên quốc gia, chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Ngăn chặn, xử lý tình trạng khai thác khoáng sản trái phép; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác, chế biến, xuất khẩu khoáng sản; hạn chế tối đa, tiến tới chấm dứt tình trạng xuất khẩu tài nguyên khoáng sản thô hoặc chỉ qua sơ chế; tính toán hài hòa, cân đối giữa xuất và nhập khẩu, giữa phục vụ cho trước mắt và dự trữ chiến lược đối với các tài nguyên khoáng sản quan trọng; xây dựng lộ trình để tiến tới đấu thầu quyền khai thác mỏ, hoạt động khai thác và một số hoạt động hỗ trợ khai thác mỏ(5).
Xét trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn đều cho thấy, nhà nước và thị trường là “hai bàn tay” cùng đồng hành, bổ sung cho nhau để phân bổ các nguồn lực. Ở nước ta, cần xuất phát từ thực tiễn và trình độ phát triển của nền kinh tế mà sử dụng hợp lý, linh hoạt các công cụ quản lý của Nhà nước (chiến lược, kế hoạch, quy hoạch), chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, cũng như các nguồn lực vật chất của Nhà nước để can thiệp, điều tiết thị trường, bảo đảm các mục tiêu, định hướng phát triển. Trong đó, các nguồn lực vật chất của kinh tế nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, cần phải được khai thông, giải phóng tối đa, sử dụng có hiệu quả phù hợp với cơ chế thị trường. Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ, đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Cần thể chế hóa đầy đủ quyền tài sản hình thành từ quyền sử dụng đất, tạo cơ sở cho nguồn lực quan trọng này được vận hành thông suốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khai thông các điểm nghẽn, gắn liền với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Kiểm kê, đánh giá, thống kê tổng thể và từng loại tài nguyên để xác định đầy đủ tiềm năng, trữ lượng, xây dựng thành dữ liệu quốc gia phục vụ cho khai thác và quản lý hiệu quả. Phải đổi mới căn bản công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng các nguồn tài nguyên để kích hoạt sức mạnh của thị trường phân bổ nguồn lực hướng vào giải quyết các mục tiêu của Nhà nước với tính liên thông giữa kế hoạch ngắn hạn, trung hạn với tầm nhìn dài hạn, giữa phục vụ cho các mục tiêu quốc phòng - an ninh và sản xuất, kinh doanh, giữa phục vụ cho yêu cầu trước mắt và dự trữ. Coi trọng nghiên cứu, đánh giá các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật biển, tài nguyên trong không gian, tài nguyên trong lòng đất... trước đây ít được chú ý nhưng với thành tựu khoa học - công nghệ lại trở thành nguồn lực phục vụ cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng...
3- Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động tốt hơn nguồn lực ngoài nhà nước, nâng cao hiệu quả đầu tư công và hoạt động kinh doanh vốn nhà nước.
Để tăng tốc phát triển trong thời gian tới, cần phải nỗ lực và có nhiều biện pháp để thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đa dạng hóa các nguồn vốn huy động và sử dụng, nhất là nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước. Cần hoàn thiện thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách huy động nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước để đẩy nhanh phát triển kết cấu hạ tầng, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và xã hội. Đây phải được xem là giải pháp đột phá để đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, là một phương cách bảo đảm cho nguồn lực xã hội được huy động và sử dụng có hiệu quả. Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hoàn toàn tự mình quyết định sản xuất cho ai, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào theo tín hiệu của thị trường, có thể ra quyết định huy động nguồn vốn và đầu tư trong thời gian ngắn, đẩy nhanh tốc độ thi công và hoàn thành công trình sớm để đưa vào khai thác, nhanh thu hồi vốn và sinh lời. Vì vậy, muốn huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc quan điểm thị trường đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ nguồn lực và phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Phải đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm các loại giấy phép con, cải cách mức thuế và thủ tục đăng ký của doanh nghiệp, thủ tục đăng ký hải quan, quyết liệt loại trừ tình trạng nhũng nhiễu đối với doanh nghiệp, áp dụng các khâu công nghệ có thể thay thế con người trong đăng ký, cấp giấy phép để minh bạch hóa, giảm thiểu “tham nhũng vặt”. Cải cách thuế theo hướng tạo động lực cho khuyến khích đổi mới sáng tạo, thâm dụng công nghệ, ít gây ô nhiễm môi trường, thúc đẩy kết nối doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện thể chế, cơ chế để doanh nghiệp có điều kiện huy động nguồn lực tài chính trên thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu doanh nghiệp,... bổ sung cho kênh huy động nguồn lực tài chính qua hệ thống tín dụng ngân hàng đang chịu nhiều áp lực. Hỗ trợ phát triển theo ngành hàng sản xuất của kinh tế tư nhân thay thế cho chính sách chung chung đối với kinh tế tư nhân như hiện nay, không phân biệt ngành hàng và quy mô sản xuất. Xây dựng chiến lược phát triển và có chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để khuyến khích, hỗ trợ nhóm doanh nghiệp “dẫn đầu” thuộc khu vực kinh tế tư nhân có tiềm năng kinh doanh vươn ra thị trường khu vực và thế giới, bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước, tích cực đổi mới công nghệ, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Có cơ chế để ngân hàng định giá các loại tài sản vô hình, cấp tín dụng theo chuỗi giá trị gắn với tài sản hình thành trong tương lai. Đẩy nhanh thoái vốn nhà nước, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước không thuộc danh mục mà Nhà nước cần nắm giữ, chi phối, mở rộng hình thức đầu tư theo đối tác công tư (PPP),... tạo dư địa cho huy động nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Phải có hình thức khen thưởng bậc cao, xứng tầm, cho những doanh nhân, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có đóng góp quan trọng cho gây dựng, phát triển những sản phẩm chủ lực cho đất nước, có giá trị gia tăng cao, có ý nghĩa nâng cao địa vị kinh tế quốc gia - dân tộc và góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường trong hội nhập quốc tế.
Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả chính sách tiền tệ, phối hợp có hiệu quả với chính sách tài khóa và các chính sách khác để kiểm soát lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Tiếp tục tập trung cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, nâng cao năng lực tài chính và chất lượng tín dụng, chuyển đổi mô hình kinh doanh, quản trị, điều hành của tổ chức tín dụng; tăng cường công tác thanh tra, giám sát ngân hàng; bảo đảm an toàn hệ thống. Thực hiện chính sách cân bằng giữa huy động vốn qua các tổ chức tín dụng ngân hàng với huy động vốn qua thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn đầu tư công, cải cách thủ tục xét duyệt để rút ngắn thời gian chuẩn bị dự án đầu tư, bảo đảm cho nguồn lực quan trọng này nhanh chóng đi vào vận hành, phát huy hiệu quả. Tập trung đầu tư phát triển các công trình cấp bách, trọng tâm, trọng điểm, các công trình kết cấu hạ tầng bảo đảm tính đồng bộ, kết nối nhằm tạo động lực cho phát triển lan tỏa. Phải khắc phục triệt để tình trạng đầu tư dàn trải, kéo dài, không hoàn thành dự án đúng tiến độ, làm đội vốn, gây lãng phí nguồn lực. Thực hiện đấu thầu công khai, minh bạch các dự án sử dụng vốn đầu tư công, bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng giữa các chủ thể của kinh tế thị trường. Phát huy vai trò dẫn dắt, “vốn mồi” của đầu tư công để thu hút tư nhân tham gia các công trình đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), gắn với xác định rõ trách nhiệm của cả hai bên trên tinh thần “đối tác”, được thể hiện trong quá trình đàm phán, giao kết và thực hiện hợp đồng. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, chế độ trách nhiệm trong quản lý đầu tư công, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm mọi sai phạm.
Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận rất quan trọng của kinh tế nhà nước, nắm giữ nguồn lực lớn của toàn xã hội, phải tiếp tục được cơ cấu lại, đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh vốn nhà nước. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được thành lập, vận hành một thời gian, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định, cơ chế, nhân sự, phương thức hoạt động, đủ năng lực thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu, quản lý hiệu quả hoạt động kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp, được phân tách với chức năng quản lý nhà nước. Với tư cách là nhà đầu tư, doanh nghiệp nhà nước phải được trao quyền kinh doanh vốn nhà nước một cách bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm như mọi chủ thể khác trong nền kinh tế thị trường, làm cho vốn nhà nước luôn được bảo toàn và sinh lời. Phải rà soát lại hệ thống cơ chế, chính sách để bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường, quản trị doanh nghiệp phải theo chuẩn mực hiện đại. Tôn trọng tính độc lập trong việc thực hiện quyền và trách nhiệm của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc, ban điều hành doanh nghiệp nhà nước để hoạt động và quản trị của doanh nghiệp nhà nước được thực hiện một cách minh bạch, giải trình, chuyên nghiệp và hiệu quả cao. Giao quyền tự chủ rộng rãi cho doanh nghiệp nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường gắn với kiểm tra, kiểm soát, quản lý chặt chẽ việc huy động, sử dụng vốn, nhất là vay nợ nước ngoài, các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài, nguồn vốn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà tư nhân không làm hay chưa làm. Đẩy mạnh tái cơ cấu, thoái vốn, cổ phần hóa và niêm yết trên thị trường chứng khoán theo đúng tiến độ của Đề án đã được Chính phủ phê duyệt, trong đó tập trung vào cơ cấu lại toàn diện các tập đoàn, tổng công ty về ngành, nghề kinh doanh, tài chính, công nghệ, tổ chức, thúc đẩy áp dụng các mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại, phù hợp với nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Sắp xếp, cơ cấu lại các tập đoàn, tổng công ty để hình thành những tập đoàn, tổng công ty lớn, đa sở hữu, có quy mô và phạm vi hoạt động phù hợp với năng lực quản trị, điều hành; hoạt động trong những lĩnh vực có tính dẫn dắt; phát huy tốt lợi thế so sánh và nguồn lực Nhà nước giao, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới; có hàm lượng công nghệ cao, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh; đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các bộ, ngành liên quan cần sớm hướng dẫn cụ thể hơn phương án sử dụng đất, xác định giá trị doanh nghiệp, kể cả các giá trị vô hình, như thương hiệu, chuỗi giá trị, sở hữu trí tuệ, giá trị lịch sử - văn hóa... để tạo thuận lợi cho tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới, nâng cao năng lực quản trị theo các tiêu chuẩn hiện đại, nhất là năng lực cạnh tranh, theo dõi, đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh doanh qua các kỳ đánh giá. Mỗi tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải là một trung tâm đổi mới sáng tạo, tập hợp xung quanh mình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ với cụm ngành, gồm các nhà cung ứng phân tầng, hình thành chuỗi giá trị và nâng cao năng lực cạnh tranh. Những lĩnh vực tư nhân chưa làm, nhất là lĩnh vực cần vốn lớn, hàm lượng khoa học - công nghệ cao, tư nhân chưa sẵn sàng, quan hệ thị trường mới manh nha, doanh nghiệp nhà nước phải kiến tạo thị trường. Khi thị trường đủ sức hấp dẫn thu hút tư nhân tham gia thì có thể chuyển giao để thu hồi vốn, rồi lại đầu tư khai mở các ngành, nghề mới. Doanh nghiệp nhà nước phải chủ động tham gia kết nối với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hình thành mạng sản xuất, chuỗi giá trị, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
4- Chủ động nắm bắt, tận dụng tối đa xu hướng dịch chuyển ngành, nghề gắn với dịch chuyển nguồn lực đang diễn ra hiện nay để nâng cao năng lực thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài, hấp thu và chuyển hóa ngoại lực thành nội lực.
Thực tiễn hơn ba thập niên đổi mới cho thấy, nguồn lực bên ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế đất nước, bổ sung những thiếu hụt và góp phần khai thác có hiệu quả hơn nguồn lực trong nước. Trong những năm tới, càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nguồn lực trong nước và nước ngoài càng gắn bó hữu cơ, tùy thuộc lẫn nhau và mức độ tương tác càng cao. Nguồn lực bên ngoài rất đa dạng, bao gồm từ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI), kiều hối, xuất khẩu lao động, đầu tư ra nước ngoài, nguồn vay chính phủ, nguồn phi chính phủ... Nguồn lực bên ngoài đã và đang góp phần tích cực tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, nâng cao trình độ, năng lực sản xuất, tăng thu ngân sách nhà nước, chuyển giao công nghệ, chia sẻ kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo khả năng kết nối cho hàng hóa Việt Nam tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, đan xen lợi ích quốc gia dân tộc với thế giới. Mỗi giai đoạn lịch sử đặt ra những yêu cầu riêng trong thu hút nguồn lực bên ngoài, do bối cảnh thế giới và nội lực nền kinh tế đất nước chi phối, nhất là khả năng bổ sung cho các thiếu hụt và năng lực đối ứng, hấp thu, quản lý của chúng ta. Hiện nay, nước ta đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nên nguồn ODA khó khăn hơn, điều kiện ngày càng ngặt nghèo. Cần phải sử dụng có hiệu quả, tránh để gánh nặng nợ nần cho các thế hệ tương lai. Việc thu hút nguồn đầu tư FDI cần chuyển trọng điểm từ nhấn mạnh số lượng sang coi trọng hơn nữa chất lượng; ưu tiên các dự án tạo giá trị gia tăng cao, có công nghệ và mô hình quản trị hiện đại, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; lấy chất lượng, hiệu quả công nghệ và bảo vệ tài nguyên môi trường làm tiêu chí đánh giá chủ yếu. Chú trọng các nguồn lực khác, như kiều hối, nguồn xuất khẩu lao động,... để khai thác, sử dụng hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Cần tận dụng cơ hội được mở ra khi thực hiện các hiệp định tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) cũng như các hiệp định tự do thương mại khác mà Việt Nam đã và đang đàm phán, ký kết với các đối tác để thu hút đầu tư, mở rộng thị trường, tiếp thu công nghệ, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Cần bám sát xu hướng dịch chuyển các dòng FDI gắn với dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu mới phát sinh từ chiến tranh thương mại, cạnh tranh nguồn lực giữa các quốc gia đang diễn ra gay gắt,... để đề ra chính sách linh hoạt, hiệu quả trong thu hút FDI. Nhìn lại lịch sử kinh tế thế giới cho thấy, vào những thập niên 70 - 90 của thế kỷ trước, khi chiến tranh thương mại giữa Mỹ - Nhật Bản nổ ra khiến nhiều ngành, nghề dịch chuyển, một số nước và vùng lãnh thổ khu vực Đông Á đã tận dụng được cơ hội để đón nhận, hấp thu và tiến vào chiếm lĩnh những ngành nghề mới làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế, như công nghiệp bán dẫn của Hàn Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), công nghiệp ô-tô của Hàn Quốc. Bài học nêu trên cho thấy, chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách, chuẩn bị đồng bộ cả hạ tầng “cứng”, hạ tầng “mềm” và môi trường thông thoáng để chủ động nắm bắt xu hướng dịch chuyển nguồn vốn đầu tư FDI đang diễn ra hiện nay. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi theo hướng tăng tính liên kết doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước, các lĩnh vực ưu tiên chuyển giao công nghệ và quản trị cho doanh nghiệp Việt Nam, phát triển cụm ngành, chuỗi giá trị, góp phần nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí quốc gia - dân tộc trong chuỗi giá trị toàn cầu. Có chính sách ưu đãi vượt trội mang tính cạnh tranh quốc tế đối với các dự án lớn, quan trọng, có công nghệ tiên tiến để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đặt trụ sở, thành lập các trung tâm nghiên cứu - phát triển, trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm tài chính,... tại Việt Nam. Ngoài danh mục hạn chế hoặc chủ trương không thu hút đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài được đối xử bình đẳng như các nhà đầu tư trong nước, khuyến khích đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mà Việt Nam không có nhu cầu bảo hộ. Đối với những dự án đang sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên, thì không xem xét mở rộng quy mô và gia hạn hoạt động. Hoàn thiện các chính sách về ưu đãi đầu tư, phân biệt ưu đãi giữa các ngành, nghề đầu tư khác nhau, khuyến khích chuyển giao công nghệ dựa trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện, hỗ trợ doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước kết nối với doanh nghiệp FDI, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, phát triển công nghiệp hỗ trợ. Nâng cao các tiêu chuẩn kỹ thuật về sản phẩm, bảo vệ môi trường, tài nguyên và tiết kiệm năng lượng phù hợp với tiêu chuẩn khu vực và thế giới. Hoàn thiện các quy định bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, vốn đầu tư, thu nhập, quyền và lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư và chủ thể có liên quan phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và luật pháp quốc tế.
Trong nhiều thập niên qua, toàn cầu hóa, hợp tác kinh tế đa phương, song phương được đẩy mạnh, làm cho nguồn lực lưu thông thuận lợi giữa các quốc gia, nhất là dịch chuyển vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển. Song, nguồn lực vốn mang tính động, chịu sự tác động mạnh mẽ bởi cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đang xuất hiện xu hướng dịch chuyển nguồn lực đầu tư. Chiến tranh thương mại giữa các nước lớn khiến nhiều doanh nghiệp chuyển hướng đầu tư đến nơi an toàn hơn. Trí tuệ nhân tạo, người máy thế hệ mới làm cho lao động giá rẻ không còn hấp dẫn các nhà đầu tư, thúc đẩy luồng dịch chuyển đầu tư trở lại các nước phát triển đối với các ngành, nghề mới thuộc lĩnh vực công nghệ cao. Cạnh tranh nhân tài ngày càng gay gắt, các nước có thể chế tốt đều tìm cách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, phát triển các ngành, nghề mới. Ông cha ta đã từng tổng kết “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” và ngày nay hiền tài càng trở thành vốn quý đặc biệt trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng các yếu tố nền tảng, nhất là thể chế tốt, nguồn nhân lực có chất lượng, kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại để tận dụng, nắm bắt cơ hội, chủ động thu hút nguồn lực bên ngoài phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Phải nắm vững quan điểm nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, hấp thu và chuyển hóa ngoại lực thành nội lực khi xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể thu hút nguồn lực bên ngoài. Lý luận và thực tiễn đều khẳng định: Nguồn lực bên ngoài chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi chúng ta có đường lối độc lập, tự chủ, có ý chí và khát vọng dân tộc, được thể chế hóa đầy đủ vào mọi cơ chế, chính sách, pháp luật, nếp nghĩ, cách làm của mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý, mỗi doanh nghiệp và mỗi người dân để phát huy cao nhất mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực. Hệ thống thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách, quy hoạch có chất lượng tốt vừa tạo sức hấp dẫn, nâng cao vai trò dẫn dắt trong thu hút đầu tư, vừa hạn chế các thua thiệt, bảo vệ tối đa lợi ích quốc gia dân tộc - cơ sở cho huy động, phát huy hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển, mạng lưới lô-gi-xtíc thuận tiện, nguồn nhân lực có kỹ năng, lành nghề, có tác phong công nghiệp, giàu tinh thần yêu nước, có khát vọng vươn lên,... chính là những nguồn vốn “đối ứng” quan trọng hàng đầu bảo đảm thành công cho thu hút và sử dụng nguồn lực bên ngoài. Ngoài ra, chúng ta cũng phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, khắc phục các “lỗ hổng” để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước, chống chuyển giá, bảo đảm an ninh tài chính, phòng ngừa với các rủi ro khủng hoảng tài chính của đầu tư gián tiếp...
Năm 2020 là năm Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Cần phải tận dụng cơ hội này để nâng cao hơn nữa vị thế đất nước, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước thời cơ và vận hội mới, để làm tốt những công việc trên đây, đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, nhất là đẩy mạnh cải cách hành chính để khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, bảo đảm cả nguồn lực vật chất và tinh thần, nguồn lực trong nước và quốc tế được kết nối, vận hành thông suốt, phát huy cao độ, cùng tạo nên động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.
(1) Xem: Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”
(2) Xem: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế”
(3) Văn kiện Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 103
(4), (5) Xem: Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 15-1-2019, của Bộ Chính trị, “Về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế”.
Nguyễn Xuân Phúc - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ