Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm trả lời đại biểu Trần Thị Dung (đoàn tỉnh Điện Biên) về vấn đề liên quan Luật An ninh mạng: Ngay sau Quốc hội thông qua Luật, Bộ Công an đã tích cực triển khai thực hiện. Còn về danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, hiện đã dự thảo xong, nhưng còn một dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật An ninh mạng chưa ban hành được do một số vấn đề đối ngoại, cân đối với một số quy định của luật pháp quốc tế.
Về câu hỏi của đại biểu Lưu Bình Nhưỡng về tạo điều kiện cho luật sư tham gia tố tụng, Bộ trưởng khẳng định các cơ quan luôn luôn tạo điều kiện cho các luật sư theo các quy định của pháp luật. Bộ đã ban hành thông tư 46 về trách nhiệm của các cơ quan Công an trong thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, quy định rất cụ thể tạo điều kiện cho luật sư. Bộ trưởng cũng cung cấp cụ thể các số liệu cho thấy điều này.
Về thông tin công an cơ sở nhận tiền của người dân kinh doanh, Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định nếu có thì hết sức hãn hữu. Quan điểm của Bộ Công an là kiên quyết xử lý các vi phạm, không bao che trường hợp nào, như quan điểm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh với lực lượng Công an, “danh dự là điều quan trọng nhất”. Cùng với đó, cán bộ vi phạm thì cũng xử lý trách nhiệm của người đứng đầu. Bộ trưởng cũng đề nghị cử tri, nhân dân nếu phát hiện vị phạm thì thông báo để lực lượng Công an kịp thời xử lý.
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm trả lời chất vấn chiều 6/11 |
Trả lời câu hỏi về tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm cho biết thời gian qua, tình hình tội phạm giết người có chiều hướng diễn biến phức tạp, đáng lưu ý, trong là các vụ án người thân trong gia đình giết hại lẫn nhau cho thấy sự lo ngại về một số mặt xuống cấp đạo đức xã hội. Để khắc phục tình trạng này chúng ta phải tiến hành nhiều giải pháp kinh tế, văn hóa, xã hội, lối sống, ý thức chấp hành luật pháp… để xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh. Do vậy, chúng ta phải quan tâm đến không chỉ kinh tế mà cả văn hóa xã hội trong quá trình phát triển. Bên cạnh đó, các cấp, các ngành cần cùng với lực lượng công an tăng cường nắm tình hình, hòa giải ngay từ đầu mâu thuẫn trong nhân dân, ngăn ngừa các nguy cơ nảy sinh tội phạm.
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng trả lời câu hỏi của đại biểu Phan Thị Minh Hiền về tôn chỉ, mục đích của báo chí: Cơ quan báo chí là cơ quan ngôn luận của các cơ quan, tổ chức, phải bám theo tôn chỉ, mục đích, phản ánh bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam. Điều này cũng giúp báo chí viết chuyên sâu và đây là cách tiếp cận của Việt Nam, được luật định. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng hoạt động theo tôn chỉ mục đích sẽ hạn chế báo chí chống tham nhũng, Bộ trưởng khẳng định điều này không hạn chế việc chống tham nhũng của báo chí.
Về việc “sáng đăng, trưa gặp, chiều gỡ”, tình trạng này đã xảy ra, đỉnh cao là năm 2017 mỗi tuần có hàng chục vụ được phát hiện, đây là việc sai trái. Năm 2018, Bộ đã có công cụ nhận diện các bài viết sáng đăng, chiều gỡ, hiện nay việc này đã giảm hẳn.
Về tin sai, tin giả, Bộ trưởng cho biết đây là vấn nạn toàn cầu. Bộ xác định làm sạch không gian mạng là nhiệm vụ trọng tâm, làm rất quyết liệt cả về thể chế, về công cụ quản lý (trung tâm giám sát xử lý an toàn thông tin mạng quốc gia, đường dây nóng tiếp nhận phản ánh tin giả). Bộ đã làm việc cứng rắn với các nền tảng xuyên biên giới, nhất là Facebook và Youtube, các nền tảng này đã tăng mạnh số lượng tin giả được gỡ bỏ. Từ đầu năm tới nay, Bộ phối hợp với các cơ quan chức năng xử lý hàng trăm trường hợp tin sai, tin giả.
Thời gian tới, Bộ sẽ ban hành Bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng và định danh người sử dụng mạng xã hội để người sử dụng không nghĩ rằng vô danh nên vô trách nhiệm; yêu cầu các nền tảng xuyên biên giới tuân thủ pháp luật Việt Nam và đóng thuế. Bộ cũng đề nghị Quốc hội sửa hình thức xử phạt vi phạm từ mức tuyệt đối thành mức xử phạt theo doanh thu...
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long trả lời chất vấn |
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trả lời câu hỏi về bố trí nguồn lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số: Về hai quyết định hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào rất ít người, đây là hai quyết định rất quan trọng, nhưng được ban hành vào năm 2016, tức là sau khi Quốc hội ban hành kế hoạch đầu tư công trung hạn, nên năm 2019, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội đưa vào kế hoạch năm 2020.
Hai chương trình này rất đặc thù vì quy mô nhỏ và ở vùng sâu, vùng xa, theo các biện pháp công trình và phi công trình, do đó cần có hướng dẫn của Ủy ban Dân tộc, vừa qua đã ban hành và triển khai. Đó là nguyên nhân chậm. Bộ sẽ kiến nghị Chính phủ kéo dài chương trình này và gộp vào chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng đồng bào dân tộc, miền núi giai đoạn tới.
Về chỉ số ICOR cho thấy phải mất bao nhiêu đồng vốn đầu tư để tạo ra được một đồng tăng trưởng GDP, Bộ trưởng cho biết: ICOR thời gian qua đã giảm, tức là hiệu quả đầu tư tăng lên, nhưng ICOR năm 2020 lại tăng lên do tác động của COVID-19. Hơn nữa, ICOR là tính các công trình đầu tư, nên phải sau 5 năm mới có thể thấy được hiệu quả toàn diện.
Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Lê Thành Long cho rằng nhận xét của đại biểu Võ Thị Như Hoa (Đoàn TP Đà Nẵng) về tình trạng chồng chéo văn bản pháp luật là chính xác. Chính phủ xác định xây dựng thể chế là công tác ưu tiên. Bộ Tư pháp và các bộ ngành đã cố gắng nhưng tình trạng văn bản chồng chéo, hết hiệu lực, chưa phù hợp nhưng chưa được rà soát kịp thời là một thực tế. Vừa qua Chính phủ đã có báo cáo Quốc hội về những nhóm vấn đề chồng chéo, lý do và đề xuất. Nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, do khả năng chúng ta còn hạn chế chưa dự liệu hết các vấn đề đặt ra, đặc biệt những nội dung liên ngành, nhiều vấn đề khó, có những biến động đòi hỏi phải cập nhật.
Các chủ thể xây dựng luật, văn bản luật cần rà soát đánh giá kỹ tác động. Khi soạn thảo luật phải đặt trong bối cảnh liên ngành, liên lĩnh vực. Yếu tố con người là cơ bản, phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng.
Về câu hỏi của đại biểu Nông Văn Tình (Đoàn tỉnh Nghệ An) về tình trạng chậm văn bản hướng dẫn thi hành luật, Bộ trưởng Lê Thành Long cho rằng nhận xét là chính xác và chưa được khắc phục triệt để. Ngoài lý do chủ quan thì có những lý do khách quan như có những luật phải ban hành hàng chục văn bản hướng dẫn, trong khi có những vấn đề rất khó, còn nhạy cảm. Vì vậy, đây phải là nhiệm vụ trọng tâm của các bộ ngành, là tiêu chí đánh giá cán bộ, phải thực hiện song song khi xây dựng dự thảo luật.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Trần Thị Dung (Đoàn tỉnh Điện Biên) về giải pháp thay thế chôn lấp rác thải, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cho biết hiện nay mỗi ngày chúng ta có 35.000 tấn chất thải rắn đô thị và hơn 26.000 chất thải rắn nông thôn, ngoài một số lò đốt rác thì đa phần số rác này được chôn lấp tại hơn 1.000 bãi rác, gây ô nhiễm, phần lớn rác không được tái chế.
Trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường Đầu tư đã có nhiều quy định như khi xây dựng các khu đô thị phải có bãi rác, điểm trung chuyển rác; khuyến khích phân loại, tái sử dụng rác; nhà nước hỗ trợ dịch vụ thu gom, xử lý rác; ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với công nghệ xử lý, tái chế rác.
Đại biểu Trần Thị Dung (Đoàn tỉnh Điện Biên) đặt câu hỏi chất vấn. |
Đại biểu Dương Xuân Hòa (Đoàn tỉnh Lạng Sơn) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về tình hình giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan tới các tranh chấp đất đai.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trả lời: Luật Đất đai 2013 với các quy trình thủ tục hết sức bài bản, nên dù còn tồn tại nhưng hiện các vụ khiếu nại, tố cáo liên quan tới đất đai đã giảm 30-40% so với trước đây. Các vụ khiếu kiện đông người chủ yếu là liên quan tới Luật Đất đai giai đoạn trước.
Còn vấn đề tranh chấp đất đai nông lâm trường, có nhiều nguyên nhân do cơ sở dữ liệu, tình trạng quản lý lỏng lẻo, lợi ích của nông trường viên…, chúng tôi đã xác định và từng bước xử lý thông qua xây dựng cơ sở dữ liệu và sắp xếp lại các nông, lâm trường. Một vấn đề quan trọng khác là định giá đất đai bảo đảm khách quan, công bằng, thỏa đáng. Do đó, đề nghị đưa vào Luật Đất đai mới các vấn đề mới như cơ sở dữ liệu đất đai.
Trả lời câu hỏi của đại biểu về công tác thi hành án, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết trong 5 năm cơ quan thi hành án đã thi hành 3,5 triệu vụ án, thu lại 200.000 tỷ đồng, riêng năm 2020 là 54.000 tỷ đồng. Những khó khăn khách quan hiện nay là nhiều vụ án được tuyên số tiền phải thi hành rất lớn nhưng nhưng thực tế lại không có hoặc tiền, tài sản nằm ở nhiều nơi, có nhiều vấn đề tranh chấp pháp lý. Về chủ quan, hệ thống thi hành án chưa có sự tập trung chỉ đạo điều hành quyết liệt. Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã thành lập tổ công tác đi làm việc từng nơi, từng địa phương, chọn một số vụ án trọng tâm, trọng điểm để xử lý. Việc thu hồi tài sản là nhiệm vụ cả hệ thống chứ không riêng cơ quan thi hành án.
Đối với công tác theo dõi thi hành bản án hành chính, Bộ trưởng Lê Thành Long cho hay tỷ lệ còn thấp, không được như ý muốn do những vướng mắc trong Luật Tố tụng hành chính, cơ chế thi hành và trách nhiệm cơ quan theo dõi.
Trả lời đại biểu Nguyễn Thanh Thủy (Đoàn tỉnh Bắc Kạn) về tỷ lệ giải quyết đơn kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn thấp, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Lê Minh Trí cho biết trước hết là do tâm lý người phải thực hiện bản án phúc thẩm muốn xem xét lại; đây hầu hết là những vụ việc kéo dài, đã được giải quyết nhiều lần; quá trình thụ lý giải quyết vụ việc được kiến nghị thì thì ưu tiên tòa án được rút hồ sơ.
Đối với các hành vi ngược đãi, xâm phạm quyền con người, Viện trưởng Lê Minh Trí cho rằng để giải quyết rốt ráo việc này thì một mình viện kiểm sát mà đòi hỏi sự phối hợp cơ quan điều tra, công an, tư pháp… Viện Kiểm sát luôn làm hết sức khi giải quyết vụ án xâm hại gây bức xúc cho xã hội.
Trả lời đại biểu Châu Quỳnh Giao (Đoàn tỉnh Kiên Giang) quy định “Khi khen thưởng đối với tập thể có tổ chức Đảng, đoàn thể thì tổ chức Đảng, đoàn thể phải được đánh giá “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” trong Thông tư 12/2019/TT-BNV, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết đã ký thông tư sửa đổi bổ sung Thông tư 12 và có hiệu lực ngay lập tức.
Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Đại biểu Phùng Thị Thường (Đoàn tỉnh Vĩnh Phúc) chất vấn Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH về các giải pháp tạo việc làm cho công nhân lao động trong bối cảnh hiện nay. Đại biểu Hồ Thị Kim Ngân (Bắc Kạn) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH về vấn đề liên thông trong công tác đào tạo nghề.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung trả lời đại biểu Phùng Thị Thường và đại biểu Hồ Thị Kim Ngân: Thời gian qua, trước ảnh hưởng rất lớn của đại dịch COVID-19, đến hết năm 2020, chúng ta đã tạo việc làm cho 7,8 triệu lao động, lao động qua đào tạo đạt 64%, tỷ lệ thất nghiệp 2,48% trong quý III, đây là con số có thể chấp nhận được trong tình hình chung.
Về giải pháp tạo việc làm, cái gốc phải là tăng trưởng kinh tế, phát triển được doanh nghiệp, đây là chìa khóa tạo việc làm và giảm nghèo bền vững. Thứ hai, đào tạo và đào tạo lại, phải nâng cao chất lượng đào tạo nghề nói chung, Chính phủ, Thủ tướng đã giao Bộ xây dựng đề án này, trình vào đầu năm 2021. Với các doanh nghiệp, phải tập trung nâng cao chất lượng quản trị, đổi mới công nghệ. Tăng cường dự báo, kết nối cung cầu lao động; thời gian vừa qua Chính phủ đã giao Bộ cùng với một số Bộ khác thực hiện, hiện mới dự báo chủ yếu là cung cầu ngắn hạn và chỉ ở một số lĩnh vực nhưng đã hiệu quả hơn, tốt hơn. Tăng cường kết nối đào tạo với doanh nghiệp, vừa qua bước đầu đã có hiệu quả.
Đại biểu Ngàn Phương Loan (Đoàn tỉnh Lạng Sơn) chất vấn Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông về xử lý những nội dung nhảm nhí, trái văn hóa, thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng tiêu cực tới trẻ em.
Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng trả lời: Bộ đã đạt tỷ lệ tháo gỡ các video xấu, độc trên kênh Youtube lên đến 90%, mỗi tháng gỡ bỏ hàng ngàn video xấu độc, xử lý nghiêm một số cá nhân sản xuất nội dung xấu, độc. Bộ trưởng đề nghị người dân, tổ chức khi phát hiện các video xấu, độc thì báo đến đường dây nóng của bộ vá các sở TT&TT để phối hợp xử lý.
Thời gian tới, Bộ TT&TT đặt mục tiêu gỡ bỏ 100% video xấu, độc bị phát hiện, phát triển công cụ phát hiện video xấu, độc, phối hợp với Bộ VHTTDL ra hướng dẫn tiêu chí đánh giá video vi phạm thuần phong mỹ tục…
Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Đại biểu Ksor H'Bơ Khắp (Đoàn tỉnh Gia Lai) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Trần Hồng Hà về quan điểm có tiếp tục ủng hộ xây dựng thủy điện nhỏ và giải pháp hạn chế hậu quả thiên tai.
Bộ trưởng TN&MT Trần Hồng Hà trả lời: Thủy điện không phải là nguyên nhân gây mất rừng, lũ lụt mà đây là cách con người ứng xử với rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, thói quen tiêu thụ đồ gỗ tự nhiên, động vật hoang dã…
Thời gian tới, Bộ T&MT sẽ cùng Bộ NN&PTNT rà soát từng mét đất rừng thiên thiên, phòng hộ, đặc dụng, kê cả những nơi không còn rừng nhưng có ý nghĩa trong phòng hộ thì phải phục hồi rừng nguyên sinh theo đúng nghĩa của nó.
Đại biểu Trần Thị Hằng (Đoàn tỉnh Bắc Ninh) chất vấn Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP: Với vai trò là cơ quan tham mưu, tổng hợp giúp Chính phủ trong lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh và xây dựng chính phủ điện tử, đề nghị Bộ trưởng, Chủ nhiệm cho biết đâu là điểm nhấn của công tác này trong nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV?
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng trả lời: Có 2 điểm nổi bật sau đây:
Một là, cắt giảm thực chất thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, danh mục sản phẩm, hàng hóa kiểm tra chuyên ngành. Tính từ đầu nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV đến nay, đã cắt giảm, đơn giản hóa hơn 1.000 thủ tục hành chính, 3.893/6.191 điều kiện kinh doanh, 6.776/9.926 danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành; theo cách tính toán của WB, tổng chi phí xã hội tiết kiệm được khoảng hơn 18 triệu ngày công/năm, tương đương hơn 6.300 tỷ đồng/năm.
Chưa hài lòng với những kết quả đạt được, tháng 5/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025 với mục tiêu cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 20% số quy định và cắt giảm ít nhất 20% chi phí tuân thủ quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Hai là, xây dựng Chính phủ điện tử, trục liên thông văn bản quốc gia từ ngày 12/3/2019 đến nay đã có hơn 3,5 triệu văn bản điện tử, gửi nhận qua Trục, tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng.
Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ vận hành từ ngày 24/6/2019 đến nay đã phục vụ 23 phiên họp Chính phủ và hơn 561 phiếu lấy ý kiến thành viên Chính phủ, giúp thay thế hơn 210 nghìn hồ sơ, tài liệu giấy, tiết kiệm 169 tỷ đồng mỗi năm.
Hệ thống thông tin báo cáo Quốc gia và Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương ngày 19/8/2020 là hạ tầng số thông minh phục vụ chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số phù hợp theo lộ trình chuyển đổi số quốc gia. Đến nay Hệ thống đã kết nối 30 bộ, cơ quan với 20 chế độ báo cáo và 106/200 chỉ tiêu kinh tế - xã hội phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt, Cổng Dịch vụ công quốc gia kết nối, tích hợp với Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh từ ngày 09/12/2019. Sau gần 11 tháng triển khai, đã có hơn 85 triệu lượt truy cập, 25 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái…
Tổng cộng, từ cải cách hành chính và xây dựng Chính phủ điện tử, tiết kiệm khoảng 14.000 tỷ đồng mỗi năm, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Mai Tiến Dũng nhấn mạnh.
Đồng thời, đại biểu Trần Thị Hằng đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ GTVT về việc tiếp tục triển khai tiểu dự án đường sắt Bắc Ninh – Phả Lại; chất vấn Bộ LĐTB&XH về chính sách hỗ trợ người dân vùng lũ.
Đại biểu Nguyễn Sĩ Cương (Đoàn tỉnh Ninh Thuận) chất vấn Bộ trưởng Bộ GTVT về việc hỗ trợ các doanh nghiệp hàng không trong bối cảnh khó khăn hiện nay; về xã hội hóa các cảng hàng không.
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể trả lời: Bộ đã tổ chức nhiều cuộc họp với các DN hàng không, xem xét hỗ trợ gồm 2 nhóm. Bộ GTVT đã tăng cường chuyến bay giữa các sân bay trong nước, giảm giá một số giá dịch vụ tại sân bay, tạo điều kiện có phương án kinh doanh mới, tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển hàng không nội địa. Đến nay, hàng không nội địa đã phục hồi như thời điểm cuối năm 2019. Bộ GTVT và các bộ ngành đã tham mưu cho Chính phủ để ban hành các nghị quyết hỗ trợ DN hàng không.
Về thành lập các hãng hàng không tư nhân, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết gần đây một số hãng đăng ký thành lập mới nhưng do dịch bệnh COVID-19, Chính phủ đã chỉ đạo rà soát và khi thị trường hàng không khôi phục hoàn toàn thì sẽ xem xét cho phép thành lập một số hãng mới.
Đại biểu Cao Thị Giang (Đoàn tỉnh Quảng Bình) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Nội vụ về tinh giản biên chế trong đơn vị sự nghiệp công lập, dẫn tới tình trạng nơi thừa, nơi thiếu giáo viên.
Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Lê Minh Trí trả lời chất vấn. |
Đại biểu Vũ Thị Xuân Linh (Đoàn tỉnh Bình Thuận) nêu tình trạng xuống cấp văn hóa, đạo đức ở một số nơi, đặt câu hỏi với Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam về giải pháp căn cơ khắc phục tình trạng này. Đồng thời, chất vấn Bộ trưởng NN&PTNT về giải pháp khắc phục các tồn tại, hạn chế để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp sạch, hữu cơ, công nghệ cao?
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường trả lời về các nhóm giải pháp để phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ, công nghệ cao. Hiện nay, việc đưa khoa học công nghệ vào nông nghiệp đang vướng một vấn đề lớn là quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Theo Bộ trưởng, giải pháp không gì bằng liên kết các hộ sản xuất thành các hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp.
Đại biểu Nguyễn Minh Sơn (Đoàn tỉnh Tiền Giang) chất vấn Bộ trưởng Bộ VHTT&DL về quản lý các công trình văn hóa tâm linh.
Bộ trưởng Bộ VHTT&DL Nguyễn Ngọc Thiện trả lời: Theo quy định hiện hành thì không có khái niệm khu du lịch tâm linh, tuy nhiên, có thể hiểu là khu du lịch có yếu tố tín ngưỡng, tâm linh. Thời gian qua, các địa phương đã thu hút các doanh nghiệp có các sản phẩm như vậy. Hiện nay, mới có 6 khu du lịch quốc gia. Sáng nay tôi đã báo cáo là các mô hình quản lý, việc này hơi chậm, chúng tôi xin nhận trách nhiệm và sẽ sớm ban hành mô hình quản lý.
Về công khai minh bạch, thì phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật. Theo trách nhiệm quản lý, chúng tôi đề nghị các địa phương thực hiện việc công khai minh bạch này.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân đã trả lời câu hỏi của đại biểu về tiến độ ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 56/2017/QH của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt hiệu lực, hiệu quả; thực trạng và phương án sắp xếp, tinh giản biên chế đội ngũ giáo viên, cán bộ y tế.
Về câu hỏi của đại biểu Trần Thị Hằng về những gói hỗ trợ đồng bào bị bão lũ ở miền Trung, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết TTCP đã giao cho Bộ LĐTBXH chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính nâng mức hỗ trợ nhà bị sập từ 20 triệu đồng lên 40 triệu đồng, cấp 6.500 tấn gọi, hỗ trợ vật nuôi, cây trồng, đối với những cháu có bỗ mẹ bị mất do bão lũ, không còn nơi nương tựa sẽ được vào các trung tâm bảo trợ xã hội.
Đại biểu Trần Hồng Nguyên (Đoàn tỉnh Bình Thuận) đặt câu hỏi với Bộ trưởng Đào Ngọc Dung về mức trợ cấp hàng tháng cho các cán bộ cách mạng bị địch bắt, tù đày.
Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Đào Ngọc Dung cho rằng “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, không thể đo đếm được sự gian khổ, hy sinh của các thế hệ cha ông, sau khi Pháp lệnh Người có công được sửa đổi thì Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện tiếp chế độ. Cùng với đó, Bộ LĐTTXH cũng đề xuất nâng mức thờ cúng liệt sĩ lên gấp đôi so với hiện nay.
Đại biểu Trần Văn Tiến (Đoàn tỉnh Vĩnh Phúc) hỏi: Thời gian qua, việc triển khai giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông đã tạo thuận lợi cho cá nhân và tổ chức trong thực hiện thủ tục hành chính; tuy nhiên, theo phản ánh của cử tri, tại một số bộ, cơ quan, địa phương vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức trong giải quyết thủ tục hành chính. Đề nghị Bộ trưởng, Chủ nhiệm cho biết Văn phòng Chính phủ tham mưu giải pháp nào cho Chính phủ trong việc tiếp tục được cải thiện, đổi mới cơ chế này?
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng trả lời: Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã quyết tâm xây dựng Chính phủ liêm chính, kiên tạo, hành động, phục vụ. Đến nay, tỷ lệ nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng giao các bộ, cơ quan, địa phương bị quá hạn thực hiệ đã giảm từ khoảng 25% tổng số nhiệm vụ (thời điểm đầu nhiệm kỳ) xuống chỉ còn khoảng 1,8% hiện nay.
Đầu năm 2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, đến nay 100% các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành việc kiện toàn Bộ phận Một cửa các cấp để giải quyết thủ tục hành chính, trong đó, 58/63 địa phương thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh. Đặc biệt có địa phương đã thực hiện việc giải quyết thủ tục hành chính theo phương thức “5 tại chỗ” như Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Ninh. Nhiều địa phương đã gắn kết chặt chẽ giữa việc thiết lập một cửa “vật lý” và một cửa điện tử để tạo thuận lợi cho người thực hiện như: Hà Nội, Quảng Ninh, Đồng Nai, Cà Mau, Bình Dương… Nhiều Bộ, cư quan tiên phong như Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Bộ Công Thương, Bảo hiểm xã hội, Tập đoàn Điện lực…
Tuy nhiên, đúng như nhận định của đại biểu Quốc hội, việc giải quyết thủ tục hành chính hiện nay vẫn còn một số tồn tại, hạn chế nhất định, đặc biệt là tình trạng chậm - muộn, nhũng nhiễu, tiêu cực trong giải quyết thủ tục hành chính, người thực hiện phải đi lại nhiều lần, nhiều cơ quan và chờ đợi rất lâu mà không biết kết quả giải quyết ra sao. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là hiện tượng cá biệt xảy ra ở một số ít cơ quan, là “con sâu làm rầu nồi canh”. Trong thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu chấn chỉnh tình trạng này.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế nêu trên bên cạnh là do yếu tố con người còn có các yếu tố sau:
Thứ nhất, việc tổ chức Bộ phận Một cửa hiện nay tại vẫn còn phân tán, gắn liền với địa giới hành chính.
Thứ hai, việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các phần mềm, cơ sở dữ liệu liên quan đến việc giải quyết thủ tục hành chính còn hạn chế, phổ biến nhất là tình trạng các phần mềm chuyên ngành, ngành dọc không kết nối, chia sẻ dữ liệu với Hệ thống thông tin một cửa điện tử và Cổng dịch vụ công của địa phương.
Thứ ba, nhất là hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu công việc và yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính, đây cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc người dân ít sử dụng dịch vụ công trực tuyến do chưa tiện ích một cách thực sự.
Thứ tư, nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, các đơn vị chưa thực sự quan tâm đến việc đơn giản hóa, tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính để tích hợp lên Cổng Dịch vụ công quốc gia, giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng trả lời, làm rõ thêm về nguyên nhân, giải pháp ứng phó thiên tai
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết đợt mưa lũ kéo dài cùng với cơn bão số 9, cơn bão mạnh nhất trong 20 năm trở lại đây, vừa xảy ra ở các tỉnh miền Trung đã gây thiệt hại nặng nề về tính mạng và tài sản của người nhân và của Nhà nước. Đợt thiên tai này đã được sự quan tâm chia sẻ của cử tri và nhân dân cả nước đặc biệt là ý kiến chia sẻ của nhiều vị đại biểu Quốc hội về những nỗ lực của hệ thống chính quyền trong phòng chống thiên tai; những tồn tại và nguyên nhân, giải pháp cần phải làm trong thời gian tới để giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra, bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân.Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, hiện nay tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, thiên tai dị thường, đặc biệt là bão lũ và sạt lở đất đang là thách thức lớn với hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó châu Á là nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất. Nhật Bản, một đất nước phát triển nhưng số vụ mưa lũ, gây sạt lở đất hàng năm trong giai đoạn vừa qua là khoảng 150 nghìn lượt/năm, tăng 1,5 lần so với giai đoạn trước (giai đoạn 2001-2010).
Mưa lũ, sạt lở đất, đá đã gây thiệt hại rất nặng nề về người, tài sản ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Philippines,... Ở nước ta, mưa lũ, sạt lở đất ở nhiều nơi.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng trả lời, làm rõ thêm về nguyên nhân, giải pháp ứng phó thiên tai |
Tập trung những nguyên nhân chủ quan của sạt lở đất, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng phân tích trong những năm vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước để phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, phát triển kinh tế rừng thì rừng Việt Nam đã để phục hồi nhanh chóng. Năm 1945, rừng Việt Nam chiếm khoảng 43% thì đến năm 1995 chỉ còn 28%, đến nay độ che phủ rừng của Việt Nam đã đạt trên 41% và đứng thứ 50/193 quốc gia và vùng lãnh thổ; cao hơn, độ che phủ rừng của một số nước trong khu vực (Trung Quốc 28%, Thái Lan 21%,...) và cao hơn nhiều mức bình quân che phủ rừng của thế giới xấp xỉ 3%. Tuy nhiên, chất lượng rừng của nước ta còn thấp, do thời gian dài rừng tự nhiên bị phá để phát triển kinh tế. Rừng mới, chất lượng không cao. Tình trạng phá rừng để làm nương rẫy, trồng cây công nghiệp, phát triển kinh tế vẫn chưa được ngăn chặn triệt để và có hiệu quả, đặc biệt là tình trạng phá rừng, lấy gỗ, xây nhà,... Việc trồng rừng thay thế chưa được kiểm soát chặt chẽ.Từ đó đã ảnh hưởng đến bảo vệ môi trường, giữ nước ngọt và cũng là một nhân tố gây sạt lở đất khi có mưa lũ.
Các hoạt động đầu tư xây dựng công trình hạ tầng, kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội tại các khu vực miền núi như các công trình giao thông, đường dây tải điện, hệ thống đường ống,... đã làm thay đổi địa hình, tác động tới ổn định kết cấu địa chất và dễ gây sạt lở, cản trở thoát lũ làm cho lũ dâng cao.
Việc xây dựng các công trình nhà ở, các công trình bệnh viện, trường học, công sở, các điểm dân cư tự phát… tại khu vực miền núi thiếu nghiên cứu yếu tố địa chất cũng là nhân tố tác động làm sạt lở đất đá trong mùa mưa lũ.
Việc xây dựng các công trình hồ, đập thủy lợi, thủy điện… nếu không được kiểm soát chặt chẽ từ khâu quy hoạch, lập dự án, đánh giá tác động môi trường, cho đến khâu đầu tư xây dựng và quản lý vận hành sẽ tác động rất lớn đến mưa lũ, sạt lở đất và đe dọa đến an toàn vùng hạ du.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết hiện cả nước có trên 7.500 hồ thủy lợi, thủy điện đã đưa vào vận hành khai thác với dung tích khoảng 70 tỷ mét khối nước, trong đó có 437 hồ thủy điện - thủy lợi.
Các hồ, đập thủy lợi, thủy điện có vai trò rất quan trọng trong bảo đảm an ninh nguồn nước nước, đáp ứng nguồn nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Góp phần cắt lũ, đặc biệt là các hồ lớn, các hồ thủy điện: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Kẻ Gỗ, Sông Tranh,... Các hồ thủy lợi, thủy điện vừa và nhỏ cũng tham gia cắt lũ, trừ trường hợp lũ lớn phải xả lũ và thường xả tối đa bằng với lưu lượng lũ về hồ. Điều tiết nước cho mùa cạn. Tạo nguồn điện rất lớn. Tổng công suất thủy điện tiềm năng của nước ta là khoảng 36.000 MW, tổng công suất khai thác kỹ thuật khoảng 28.000 MW thì hiện nay chúng ta đã khai thác được 20.000 MW, chiếm khoảng 30 % tổng công suất nguồn điện.
Nguồn thủy điện là nguồn năng lượng sạch, giá rẻ, vận hành thuận lợi và là nguồn nội lực tài nguyên của đất nước. Khác với các nguồn điện than, khí hóa lỏng, ta phải phụ thuộc vào nguồn năng lượng sơ cấp nước ngoài. Do đó các công trình thủy lợi, thủy điện có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước.
Tuy nhiên, để xây dựng công trình hồ, đập thủy lợi, thuỷ điện cũng có tác động tiêu cực đến môi trường, vì các công trình hồ thủy lợi, thủy điện đa số đều xây dựng ở khu vực trung du, miền núi nên sẽ ảnh hưởng đến diện tích rừng. Đồng thời việc xây dựng các công trình còn tác động đến sự ổn định của kết cấu đất đá nên cũng có thể tác động đến sạt lở đất.
Lực lượng tìm kiếm cứu nạn tuy huy động được các lực lượng Trung ương, địa phương, quân đội, công an với phương châm “4 tại chỗ” nhưng chưa có lực lượng ứng phó thiên tai, tìm kiếm nạn chuyên nghiệp. Nhất là ở cơ sở, lực lượng chủ yếu là kiêm nhiệm, thiếu các phương tiện chuyên dùng, do đó rất khó, chậm tiếp cận đến điểm xảy ra sạt lở, thiên tai. Từ đó cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác tìm kiếm cứu nạn.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nêu 9 nhiệm vụ, giải pháp lớn trong thời gian tới. Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến phòng, chống thiên tai; đặc biệt tập trung xây dựng các nghị định hướng dẫn Luật Phòng, chống thiên tai. Rà soát lại các kịch bản biến đổi khí hậu để từ đó làm cơ sở xây dựng các phương án ứng phó.
Thứ hai, tập trung xây dựng chiến lược phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021 – 2030; xây dựng các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch đô thị, quy hoạch tỉnh gắn với ứng phó biến đổi khí hậu và chống phòng, chống thiên tai. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch thực hiện quy hoạch, lựa chọn các dự án ưu tiên để đầu tư trong giai đoạn đảm bảo mục tiêu đa mục tiêu, gắn phòng, chống thiên tai.
Thứ ba, xây dựng các bản đồ cảnh báo khu vực có nguy cơ lũ ống, lũ quét, sạt lở đất nguy hiểm với tỷ lệ thích hợp. Vấn đề này đã được chỉ đạo, được triển khai, nhưng mới chỉ xây dựng được bản đồ với tỷ lệ lớn, chưa xác định chính xác các điểm nguy hiểm để sơ tán dân.
Trên cơ sở bản đồ, sẽ quy hoạch, phân bổ lại, bố trí lại dân cư và có những chủ trương đầu tư để đảm bảo an toàn cho người dân. Đồng thời xây dựng hệ thống cảnh báo sớm để kịp thời sơ tán khẩn cấp trước khi có sạt lở đất, lũ quét. Đây là kinh nghiệm của các nước như Nhật Bản, Hoa Kỳ….
Thứ tư, kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế xã hội gắn với ứng phó biến đổi khí hậu và chống thiên tai như các công trình giao thông miền núi, các công trình hồ, đập thủy lợi, thủy điện, đặc biệt là công trình thủy điện nhỏ. Yêu cầu phải đảm bảo đa mục tiêu, hạn chế tối đa việc sử dụng đất rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, thực hiện nghiêm việc trồng rừng thay thế.
Thứ năm, sửa chữa, nâng cấp đảm bảo an toàn các công trình hồ, đập đê điều, đầu tư chống sạt lở bờ sông, bờ biển. Rà soát, sửa chữa, cải tạo công trình giao thông gây cản trở thoát lũ, đầu tư nâng cấp các khu neo đậu tàu thuyền đảm bảo tránh lũ an toàn.
Thứ sáu, tiếp tục đầu tư chương trình nhà vượt lũ của các tỉnh duyên hải miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Trong thời gian tới, Quốc hội cần bố trí cụ thể nguồn lực trong trung hạn 2021 – 2025 để triển khai thực hiện.
Thứ bảy, nâng cao năng lực của các lực lượng tham gia phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, trong đó tăng cường tính chuyên nghiệp Trung ương đến cơ sở. Kinh nghiệm tại Trà Leng là lựu lượng tại chỗ đóng vai trò rất quan trọng.
Đầu tư các phương tiện, thiết bị chuyên dùng phục vụ phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
Thường xuyên tổ chức diễn tập phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn. Quán triệt nghiêm túc phương châm “4 tại chỗ” trong phòng, chống gia tìm kiếm cứu nạn.
Thứ tám, cần lồng ghép đầu tư công tác phòng, chống thiên tai trong các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa phương.
Thứ chín, Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội về nhu cầu chi ngân sách cho công tác phòng chống thiên tai. Yêu cầu kinh phí là rất lớn.