Theo Bộ Công Thương, các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp trong nước đã bước đầu khẳng định vai trò, vị trị đối với thị trường ô tô trong nước, hướng tới thị trường khu vực, có bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất.
Tỷ lệ nội địa hóa của ngành ô tô Việt đang rất thấp. Ảnh minh họa |
Cụ thể, nhiều dự án sản xuất, lắp ráp tô quy mô lớn với mục tiêu không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn hướng tới thị trường khu vực như: tổ hợp sản xuất ô tô VinFast tại Hải Phòng; các nhà máy sản xuất, lắp ráp ô tô du lịch thương hiệu Mazda, ô tô tải, ô tô bus của Công ty Cổ phần ô tô Trường Hải (Thaco); các dự án mở rộng sản xuất ô tô du lịch và ô tô thương mại thương hiệu Hyundai của Công ty Cổ phần Tập đoàn Thành Công...
Báo cáo của Bộ Công Thương nêu rõ tương quan về sản lượng giữa xe sản xuất, lắp ráp trong nước và xe nhập khẩu trong trung và ngắn hạn thay đổi theo hướng tăng về số lượng xe sản xuất, lắp ráp. Tuy nhiên, do lượng ô tô nhập khẩu ngày càng tăng nên lợi thế này đang mất dần.
Các chủng loại xe tải nhẹ dưới 7 tấn, xe khách từ 25 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đạt mục tiêu đề ra của quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, đáp ứng cơ bản nhu cầu thị trường nội địa (xe tải đến 7 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu).
Bên cạnh những thành tựu đạt được, báo cáo của Bộ Công Thương cũng chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế.
Cụ thể, theo Bộ Công Thương, đến nay ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam chỉ tham gia vào phân khúc thấp của chuỗi giá trị ngành ô tô, phụ thuộc lớn vào sự phân công sản xuất của các tập đoàn ô tô toàn cầu, chưa làm chủ được các công nghệ cốt lõi như động cơ, hệ thống điều khiển, hệ thống truyền động.
Ngành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước chưa tạo được sự hợp tác, liên kết và chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp trong sản xuất, lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện; chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn. Trong khi đó, giá bán xe ô tô trong nước vẫn cao so với các nước trong khu vực.
Báo cáo cho biết, tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi còn thấp hơn mục tiêu đề ra và thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực. Các sản phẩm đã được nội địa hóa còn mang hàm lượng công nghệ thấp như: Săm, lốp ô tô, ghế ngồi, gương, kính, bộ dây điện, ắc-quy, sản phẩm nhựa.
Ngoài ra, giá bán cao so với các nước trong khu vực. Hiện chi phí sản xuất mặt hàng này cao hơn 10-20% khiến giá thành xe nội chịu nhiều bất lợi so với xe nhập nguyên chiếc từ ASEAN khi các hàng rào thuế quan đã gỡ bỏ. "Do quy mô sản xuất nhỏ, cùng với ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước kém phát triển, giá thành ô tô sản xuất trong nước cao", Bộ Công Thương đánh giá.
Cũng theo đánh giá, chúng ta cũng chưa có hệ sinh thái công nghiệp để tạo môi trường thuận lợi cho ngành này; dung lượng thị trường với ngành ôtô còn nhỏ, chưa đảm bảo tính kinh tế trong việc đầu tư sản xuất.
Bên cạnh đó, trình độ doanh nghiệp cũng như nguồn nhân lực ngành ôtô còn thấp; công tác nghiên cứu, phát triển chưa được quan tâm; công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển dẫn đến không tự chủ được các vật liệu cơ bản cũng như các linh phụ kiện đầu vào cho ngành.
Để phát triển ngành ôtô trong nước cũng như nâng tỷ lệ nội địa hoá, hạ giá thành sản phẩm, Bộ Công Thương kiến nghị Chính phủ, Quốc hội sớm thống nhất phương án sửa đổi quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt với ôtô, trong đó giảm thuế tiêu thụ đặc biệt cho phần giá trị sản xuất được trong nước.
Việc này sẽ khắc phục bất lợi về giá giữa xe sản xuất, lắp ráp trong nước và nhập khẩu, cũng như khuyến khích tăng tỷ lệ giá trị nội địa, phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành sản xuất ôtô.