Quanh vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau về hạn chế hình phạt tử hình, giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự án Bộ luật của UBTV Quốc hội cho biết: Kết quả lấy ý kiến Nhân dân cũng có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng đa số tán thành với loại ý kiến là bỏ tử hình với 7 tội như đề xuất của Chính phủ.
Trên cơ sở cân nhắc các ý kiến, UBTV Quốc hội dự kiến chỉnh lý theo hướng, bỏ hình phạt tử hình ở các tội danh: cướp tài sản; tàng trữ trái phép chất ma túy; chiếm đoạt chất ma túy; phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; chống mệnh lệnh; đầu hàng địch; phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược; chống loài người; tội phạm chiến tranh. Riêng tội vận chuyển trái phép chất ma túy vẫn giữ hình phạt tử hình đối với kẻ chủ mưu, cầm đầu đường dây hoặc người thực hiện việc vận chuyển ma túy với số lượng lớn.
Bên cạnh đó, một số ý kiến đề nghị cân nhắc, chưa nên bỏ hình phạt tử hình ở 3 tội: phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược; chống loài người; tội phạm chiến tranh vì đây là loại tội nghiêm trọng nhất trong các tội đặc biệt nghiêm trọng và xét về ý nghĩa chính trị, chừng nào còn duy trì hình phạt tử hình thì không nên bỏ hình phạt tử hình ở các tội danh này.
Về không áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình đối với người từ 75 tuổi trở lên, qua lấy ý kiến Nhân dân, vẫn có hai luồng ý kiến: Nhiều ý kiến tán thành phương án quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử, đồng thời không thi hành án tử hình đối với người từ 75 tuổi trở lên. Một số ý kiến đề nghị vẫn áp dụng hình phạt tử hình nếu đối tượng này phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc cầm đầu tổ chức, băng nhóm tội phạm nguy hiểm về an ninh quốc gia, tội phạm ma túy.
UBTV Quốc hội nhận thấy, quy định không áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình đối với người từ 75 tuổi trở lên thể hiện tính nhân đạo, chính sách khoan hồng của Nhà nước ta. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho tiếp thu theo đa số ý kiến Nhân dân và ĐB QH, theo đó, quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử và không thi hành án tử hình đối với người từ 75 tuổi trở lên.
Nhiều ý kiến khi lấy ý kiến Nhân dân tán thành phương án quy định không thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình về các tội: sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tham ô tài sản; nhận hối lộ, nhưng sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục cơ bản hậu quả do tội phạm gây ra, hợp tác tích cực với các cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.
UBTV Quốc hội cũng đưa ra quan điểm, đối với người phạm các tội mang tính vụ lợi thì yếu tố khắc phục hậu quả, thu hồi lại được tài sản chiếm đoạt cần được xem là một tình tiết đặc biệt khi thi hành án. Tuy nhiên, để bảo đảm sự công bằng, người phạm tội phải hội đủ nhiều yếu tố mới có thể được xem xét không thi hành án tử hình. Do đó, đề nghị chỉnh lý điểm c khoản 3 Điều 40 cụ thể như sau: “Người bị kết án tử hình về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục cơ bản hậu quả của tội phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”.
Quanh quy định không xét giảm án đối với người bị kết án tử hình được ân giảm xuống thành tù chung thân. Cũng có hai loại ý kiến: Một số ý kiến tán thành với phương án quy định không xét giảm án đối với người bị kết án tử hình được ân giảm xuống thành tù chung thân. Ý kiến khác đề nghị vẫn quy định cho xét giảm án nhưng với điều kiện khắt khe hơn.
Trong báo cáo chỉnh lý, UBTV Quốc hội cho rằng, mặc dù việc không xét giảm án đối với người bị kết án tử hình được ân giảm xuống tù chung thân sẽ làm tăng tính răn đe, phòng ngừa của hình phạt. Tuy nhiên, quy định này sẽ làm phát sinh một loại hình phạt mới (tù chung thân không giảm án), người bị áp dụng dễ nảy sinh tâm lý cực đoan, tiêu cực như chống phá trại giam, tự vẫn, bỏ trốn,... vì không còn động cơ để cải tạo, phục thiện.
Do đó, đề nghị tiếp thu theo hướng, để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt đối với người bị kết án tử hình được ân giảm xuống tù chung thân phải có điều kiện chặt chẽ hơn so với người bị kết án tù chung thân khác, cụ thể: “Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là tù 30 năm” (khoản 6 Điều 63 dự thảo).