Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Danh nhân làng

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Thật không ngờ ông anh họ Đinh Văn Thiêm của tôi lại biết vẽ mà vẽ đẹp thế! Bảy mươi tuổi, học hành chưa qua nổi lớp 4 trường làng, mỹ thuật thì còn chưa biết thế nào là palét là panhxô.

Vậy mà ông vẽ cái đình, cái chùa, cái cổng làng tôi, cái làng ngoại thành Hà Nội xưa hẻo lánh như cái làng Mùi của ông Lỗ Tấn, sao mà đẹp vậy! Mà đây là vẽ theo trí nhớ. Chứ đình, chùa, miếu mạo cổng làng xưa cũ nay còn đâu. Kháng chiến Tây phá, rồi Cải cách ruộng đất, lấy cớ bài trừ mê tín dị đoan phá, tất cả nay chỉ còn hình bóng trong ký ức lớp người già như ông anh tôi thôi. Nhưng hóa ra không chỉ biết vẽ, ông anh tôi còn thông thuộc cả lịch sử làng nữa.

 Nghe ông anh họ nói tôi mới biết: Hà Nội đã tổng kê được hơn 300 làng nghề. Và nếu Nhị Khê có nghề thợ tiện, Lai Xá có nghề chụp ảnh, Ngũ Xã có nghề đúc đồng, Xuân La, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên có nghề nặn tò he... Thì làng tôi tên cũ là Kim Liên nay gọi là phố Kim Hoa, thuộc Quận Đống Đa, Hà Nội, có nghề cắt tóc.

Tự hào về nghề truyền thống làng, ông anh họ tôi nói:

- Tính sơ qua để cậu biết nhé. Khắp Hà Nội này có nơi nào không có người làng mình lập nghiệp? Ví dụ: Cụ Tống Du có cửa hiệu cắt tóc ở Ngã ba Cửa Nam. Cụ Phạm Ngọc Phúc ở đầu phố hàng Bông đệm. Phố Hàng Bài có ông Cả Nghi. Hàng Quạt có cụ Hai Thuyết.  Phố Bà Triệu có cụ Hai Chùa, cụ Tư  Thưởng. Phố Hàng Khay có cụ Hai Chăm, cụ Ba Chép. Hàng Trống có ông Lý Lợi, ông Hai Ty. Còn ở Hải Phòng có cụ Ba Khang. Ở Vinh có ông Ba Lĩnh. Lạng Sơn có ông Ba Lễ, Cả Trung, Hai Dậu. Sơn Tây có ông Hai Yên...

Cướp lời anh, tôi nói:

- Ba em là ông Hai Yên đó. Còn ông Ba Lễ là chú em. Hai cụ đều đi theo kháng chiến chống Pháp cả. Nhưng mà anh này, nghe nói sở dĩ làng mình có nghề vít đầu vít cổ thiên hạ này là do ông thầy địa lý Tả ao yểm hướng đình cho.

Ông anh tôi cười:

-  Cụ Tả Ao là ông Thánh Địa lý, ông Tổ phong thủy nước ta. Tả Ao phong thủy nhất trên đời/ Họa phúc cầm cân định chẳng sai/ Mắt thánh trông xuyên ba thước đất/ Tay thần xoay chuyển bốn phương trời. Truyền thuyết kể rằng cụ đi qua làng ta, ghé vào một quán nước, khi cụ hỏi về ước nguyện, dân làng mình nói: muốn trở thành kẻ oai vọng, có thể vít đầu vít cổ thiên hạ. Thế là cụ xoay hướng đình, đàn ông cả làng từ đó theo nghề cắt tóc. Với lại theo anh được biết: Năm 1974 làm thủy lợi, làng  đào đất  có bắt được một hòn đá hình khối vuông, trông như cái hòm thợ cắt tóc dong, trên cái hòm ấy có bài thơ chữ Hán, dịch ra như sau:

Giang sơn một tráp, gương lược dao

Chơi ngông, gọt gáy khách anh hào

Dầu thánh, tướng ai ta cũng mặc

Vít cổ vua, xoay chẳng sợ nào

Tôi xuýt xoa kêu: Tài thật. Đúng là một bức chân dung hoàn chỉnh từ bộ đồ nghề tới phong thái.

Ông anh tôi gật:

- Ông thợ cắt tóc làng mình là thế. Tác phong đàng hoàng, chỉnh tề, ung dung, tự tại. Mà cậu có thấy không: Thời cuộc đổi thay. Bao nhiêu nghề cũ mất đi. Bao nhiêu nghề mới nảy sinh. Riêng nghề cắt tóc thì không bao giờ bỏ được. Tất nhiên, theo hướng hiện đại nghề này cũng biến đổi nhiều rồi. Cái tóc là góc con người. Tựu trung, nghề cắt tóc là chỉnh trang cái đẹp cho con người. Mà này...

- Anh bảo gì?

-  Làng ta không những là một làng nghề truyền thống mà còn một làng cổ, địa thế đẹp, phong cảnh với đầm hồ, sông nước vây quanh thì vô cùng hữu tình kỳ thú. Cái gì cũng đáng gọi là mỹ lệ. Kể cả cái kiệu rước bảy tầng đặt đồ lễ ngày hội làng, thật không nơi nào bằng! Cậu thấy có nên viết một cuốn Lịch sử làng ta không?

- Viết một cuốn Lịch sử làng?

-  Hẳn là thế!
Minh họa Lương Xuân Đoàn
Minh họa Lương Xuân Đoàn
Đáp lại tiếng reo hoan hỉ và lời hẹn của tôi, rằng anh viết đi, em sẽ lo phân biên tập, xin giấy phép và in ấn, ông anh tôi gật gù và quả quyết: Anh sẽ bắt tay ngay hôm nay và bảo đảm với chú, ba tháng nữa anh sẽ xong bản thảo để chú duyệt!                       
*
 Nói là làm, đó là phong cách của ông anh họ tôi. Tiếc thay, ba tháng sau, tôi chủ động gọi điện thì được biết, anh chưa hề động bút. 

- Sao thế bác Thiêm? Thiếu tư liệu à?

- Cũng có một phần.

- Thế thì vì lý do gì?

- Là dân viết lách, cậu hoàn toàn biết chứ sao lại còn hỏi!

- Khó hiểu nhỉ?

- Có gì mà khó hiểu! Đơn giản chỉ là thế này... Nhưng mà thôi, chuyện đó nói sau. Còn bây giờ, Chủ nhật tuần tới là ngày Rằm, cậu hãy về làng. Về làng làm gì? Cứ biết là thế đã. Gặp nhau sẽ có lời phân giải.
*
Hồi hộp, sáng ngày Rằm, tôi vừa ló mặt vào cổng làng thì ông anh dáng đã chờ sẵn liền túm lấy tôi. “Cậu đi với tôi, mục sở thị nhé. Xem có đúng là làng ta còn ối mặt đáng tự hào, đáng phải viết vào lịch sử làng không!”. 

 Thì ra hôm nay làng tôi mở hội. Và tôi nhận ra ngay hội làng tôi đáng tự hào thật. Đây là dịp để mọi người ôn lại lịch sử làng, một ngôi làng ngoại thành xinh đẹp, có nghề truyền thống và có bề dày văn hóa phong tục riêng. Trước hết là không khí hội làng rất vui. Thôi thì đủ! Ở bãi cỏ đầu làng cùng với cuộc thi ăn giải 500.000 đồng cho ai cắt tóc nhanh nhất và đẹp nhất, còn có các trò chọi gà, chọi chim, cờ người, đánh đu, đánh vật, đi cầu phao, đập nồi, bắt vịt, leo cột mỡ, ăn mía xong lấy bã mía thổi cơm trên thuyền. Cũng là trò chơi nhưng mang tính chất ăn thua thì tổ chức ở cạnh đình; đó là cò quay, tôm cá, xóc đĩa, tài sửu, ném vòng. 

 Tuy nhiên, sau khi dẫn tôi đi thăm thú các nơi, ông anh tôi ghé tai tôi, bảo: Chưa đến lúc cậu bị choáng đâu! Và tôi đã giật mình tự hỏi: Cái gì mà tôi bị choáng? Cuối cùng thì cái giây phút chờ đợi của tôi và ông anh đã tới! Ngả trưa. Ngoài đường người từ đâu bỗng dồn ứ tới. Đây là lúc các giáp, các chi  mang cỗ lên đình. Cỗ là cỗ chay bày bàn, không nấu bày bát, vì sợ hai ngày sẽ thiu ôi. Mỗi mâm cỗ đặt một tầng. Hợp tất cả lại thành một kiệu cỗ bảy tầng. Bảy tầng tượng trưng cho bảy giáp của làng. Bảy bàn chồng lên nhau, mỗi bàn cao ba mươi xăng ti mét, ngang sáu mươi lăm xăng ti mét, rộng năm mươi xăng ti mét.

- Cậu để ý xem. Tầng 1, con lợn quay. Tầng 2, mâm xôi con gà sống thiến. Tầng 3, các loại giò chả. Tầng 4, các loại bánh trái như: bánh xu xê, bánh mảnh cộng, bánh cốm, bánh bàng, bánh gừng, bánh nhện. Tầng 5, các trái quả. Tầng 6, hoa bày đĩa cùng trầu têm cánh phượng. Tầng 7, các  tranh vẽ các điển tích như Tam Anh chiến Lã Bố, Võ Tòng đả hổ... 

  Hội tan. Tiễn tôi ra cổng làng, ông anh tôi nắm tay tôi liến thoắng một hồi. Rằng thì là cảm hứng, tiếng Tây là Inspiration, dịch theo âm Hán Việt là Yên - sĩ - phi - lý - thuần là cái không có thì không thể sáng tạo, viết lách được. Nó là cái Trời cho, là cái ngẫu nhiên và phải  sống một  cách tích cực để nó đến. Và với ông anh tôi thời cơ để nó đến là hôm nay đây.

- Cậu yên tâm đi! Một tháng nữa cậu sẽ nhận được bản thảo cuốn Lịch sử làng của tôi.

 Vỗ vai tôi, ông anh họ tôi hể hả nói vầy!   
 *
  Cảm hứng nhân sức sáng tạo con người lên bội số. Ông anh họ tôi đã có nó như buồm đã có gió. Vậy thì tôi chắc mẩm chỉ ít hôm nữa thôi là những trang bản thảo Lịch sử làng do ông anh viết đã có trong tay tôi rồi. Tiếc thay, sự thật lại không phải như thế. Tôi đã nhầm. Năm lần bảy lượt tôi gọi điện cho anh, chỉ nhận được câu trả lời ừ hữ và sau cùng là lời khất lần.

- Thú thật với cậu là tôi đã tự lừa dối mình mà không biết!

Rốt cuộc đó là lời thú nhận của ông anh tôi. Anh chưa hề viết được chữ nào trong mấy trăm trang bản thảo mới có dự  định trong đầu. Vì sao vậy? Vì nguồn cảm hứng tưởng đã đến mà hóa ra chưa đến? Vì sao lại chưa đến? Là bởi vì trong khâu sưu tầm tư liệu ông  anh tôi chẳng tạo được cho mình hứng thú gì.  

- Cậu Khang ơi! Tất nhiên, làng mình không phải đất giàu có. Như cái làng Diễn Tháp ở Kinh Bắc, chỉ buôn bán đồng nát và trăm thứ bà dằn, thượng vàng hạ cám mà có cả trăm tỷ phú. Cũng không phải đất học, không phải đất khoa bảng. Như cái làng Quỳnh Đôi xứ Nghệ: Làng ta khoa bảng thật nhiều. Như cây trên núi, như diều trên không. Thêm nữa, cái chính  là gì nữa cậu có biết không?

 Ngừng một lát, ông anh họ tôi tiếp, giọng bỗng chuyển sang ngào ngạt khác thường:

-  Buồn lắm cậu ạ. Vì xem ra dân làng mình cũng ít công trạng với non sông đất nước này. Trong khi đó, cậu biết không, làng Kim Phương bên cạnh mình, xưa có một ông Nghè, một ông Cống, còn tiến sĩ, văn nghệ sĩ, giáo sư bây giờ họ có đến cả chục. Lại có cả một ông Bộ trưởng. Kháng chiến chống Pháp có một anh hùng. Kháng chiến chống Mỹ có năm dũng sĩ. Còn làng mình đàn ông chỉ có nghề cắt tóc dạo, đàn bà thì chỉ biết trồng rau muống. Danh nhân chẳng có lấy một mống! Còn học vị? Cao nhất chỉ là ông Công dạy tiểu học, năm 1968 đi dạy ở Ănggôla hai năm. Chưa kể, nói về mặt tiêu cực thì nổi danh ở làng mình còn là đội sếp Cương, sếp bốt patidăng thời Tây tạm chiếm, nổi tiếng gian ác, được Tây thưởng Bắc đẩu bội tinh, giờ 90 tuổi vẫn được Tây cho ăn lương.   

 Nói câu cuối cùng, ông anh họ tôi thở hắt ra và nỗi thất vọng từ anh lan truyền ngay lập tức sang tôi. Tôi ngắt máy. Và hiểu rằng, một dự định, một hào hứng thế là đã tiêu tan! Tiêu tan triệt để. Tiêu tan triệt để trong ông anh họ, trong tôi và trong  dân làng tôi. Con người là con người của xã hội, của cộng đồng. Lý do nó tồn tại là vì lợi ích của xã hội, của cộng đồng!

 Nhưng, may thay một lần nữa tôi lại nhầm. Nửa tháng sau, không thể tưởng tượng nổi, một cú điện thoại đột ngột reo vang và tôi nhận ngay ra  ở đầu dây đằng kia là tiếng nói hổn hển lấp trong hơi thở của ông anh họ tôi:

- Cậu Khang ơi! Cậu có biết câu thơ này là của ai không? Chẳng có ai tẻ nhạt trên đời/Mỗi số phận mang một phần lịch sử. Của ông nhà thơ Nga Evghêni Eptushenko đấy!

- Anh nói thế để làm gì, em chưa hiểu?

- Thế thì thế này. Tôi đã tìm được năm người đáng gọi là danh nhân làng ta rồi! Ông Bường! Chú có nhớ ông Bường lưng gù gù ở xóm Đầm đi cắt tóc dong ở mấy làng bên Vọng không? Năm 1944, thời tiền Khởi nghĩa mùa thu năm 1945, chính ông đã để truyền đơn Việt Minh trong hòm đựng đồ cắt tóc, rồi đi phân phát cho các cơ sở trong thành phố, cậu ạ. Ông Bường bảo cùng hoạt động trong tổ Việt Minh với ông có bốn người nữa, trong đó có cả ông thân sinh ra cậu. Hiện còn sống thì có ông Khiền có cửa hàng bán giò đứng tên cháu nội là Liễn ở phố 345. Giờ, anh còn đi xác minh một tin quan trọng nữa cơ. Mình có ba dũng sĩ diệt Mỹ và một liệt sĩ có tên tuổi hăn hoi, công tích có ghi ở Nghĩa trang Hàng Dương - Côn Đảo kia. Còn hồi chống Mỹ có ông Trung là sư trưởng tên lửa bắn rơi B52 ở Vĩnh Linh, được phong anh hùng nữa cơ! Ông Trung là người xóm Đầm con trai bà cả Quế đó, cậu có nhớ không? Núi Thái Sơn ở ngay trước mặt mà không trông thấy, có chết không!

Chao ôi! Cuối cùng thì nỗi ngậm ngùi trong ông anh họ tôi và trong tôi nữa về sự thiếu vắng danh nhân đã được giải tỏa. Danh nhân, đó là ánh hào quang, là niềm tự hào khích lệ vô giá, là điểm tựa cho con người hôm nay. Danh nhân, linh hồn bất tử của làng quê ta! Ra là vậy, nghèo gì thì nghèo chứ không thể nghèo các giá trị tinh thần!

“Thế hóa ra ba em cũng là người tham gia cánh mạng từ hồi tiền khởi nghĩa...”. Ngây người, tôi lắp bắp không nói nên lời. Chỉ thấy trong tai đang đầy ắp tiếng reo rổn rảng như thác đổ tràn đầy hứng khởi lặp đi lặp lại của ông anh tôi:

- Có hứng rồi. Lời hứa như đinh đóng cột đây! Một tháng nữa tôi sẽ viết xong bản thảo và cậu chuẩn bị tinh thần đọc nhé! À mà chưa chắc đã đến một tháng đâu...