Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Giáo sư Hoàng Như Mai - Một nhân cách lớn

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Giáo sư Hoàng Như Mai

Giáo sư - Nhà giáo nhân dân (GS - NGND) Hoàng Như Mai, một nhà văn hóa lớn, một nhà giáo, nhà thơ, nhà viết kịch… đã qua đời lúc 15 giờ 45 ngày 27/9/2013 tại TP Hồ Chí Minh, hưởng thọ 95 tuổi. Báo Kinh tế & Đô thị xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ (giảng viên khoa Văn học, Đại học KHXHNV - Đại học Quốc gia Hà Nội) về GS - NGND Hoàng Như Mai.

 
Giáo sư Hoàng Như Mai
Kinhtedothi - Giáo sư Hoàng Như Mai

Cách đây ít lâu, chúng tôi nghe nói có đoàn làm phim từ TP Hồ Chí Minh ra để hoàn thành bộ phim về GS Hoàng Như Mai. Anh em khoa Văn - Đại học Tổng hợp Hà Nội xưa kéo nhau lên Văn phòng khoa chờ đợi. Nhưng rồi đoàn nhỡ hẹn. Cũng là dịp ngồi với nhau tri ân các thầy, nhắc lại chuyện cũ.


Thế hệ các giáo sư đã dạy dỗ chúng tôi thật đa dạng và dưới một góc nhìn nào đó cũng thật phức tạp. Nhưng họ có một đặc điểm chung là rất khổ cực. Khổ về vật chất thì khỏi nói. Nhưng đặc biệt là khổ tâm. Trải qua những khó khăn gian khổ của hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ, đến khi đất nước đổi mới thì là lúc các thầy cũng đã về già. Chúng tôi bây giờ đã sung sướng gấp vạn lần các thầy.


Dãy lán học lợp giấy dầu ọp ẹp. Phía cửa sổ là những giao thông hào chưa kịp lấp. Ở cuối sân chơi Ký túc xá Mễ Trì là một góc nhà ăn bị bom đánh sập, hố bom lổng chổng bê tông cốt sắt. Thầy vào lớp, khăn phu la và áo vét. Sang trọng và sang sảng. Mỗi giờ dạy của thầy mang đến hạnh phúc cho những tâm hồn nhà quê ngẩn ngơ, mơ mộng, đói ăn và đói chữ. Ngoài hè, thấp thoáng sinh viên các khoa, các khóa khác há mồm nghe lỏm.


Thầy dạy văn học từ tiền chiến sang kháng chiến. Cũng lạ lắm, trong thời chống Mỹ như thế mà chúng tôi chưa bao giờ nghe thầy một lời phê phán Thơ mới, ngược lại, bằng giọng đọc của thầy, lửa đam mê trong lòng chúng tôi được thổi bùng về một thời đại đổi mới thơ ca. Những ai đã nghe thầy đọc và bình bài thơ Hai sắc hoa ti gôn thì sẽ suốt đời không quên được. Thầy dạy bằng sự trải nghiệm, lịch lãm, bằng tâm hồn. Ít lí lẽ lắm. Trong bài giảng của thầy, chỉ có văn chương. Rất ít những trích dẫn kinh viện hay từ văn bản này khác. Sau này chúng tôi cũng được học chuyên đề các giáo sư khác về cùng giai đoạn. Một số cụ chỉ giỏi moi đời tư của các tác giả, nào ông này nghiện, ông này đi cao lâu, ông kia đi ả đào, ông nữa “xê dịch” mất lập trường, ông khác thì “dinh tê”, ông khác nữa thì viết đa nghĩa, can tội thích biểu tượng... Giờ học chỉ toàn là câu chuyện làm quà, hạ bệ tiền nhân không thương xót. Nghe cũng thú vị nhưng nghề nghiệp thì không học được chi cả. Cũng có cụ sau này nghĩ lại, quay ra “chiêu tuyết” cho Thơ mới.


Ngay hồi đó, chúng tôi chỉ một thắc mắc là tại sao GS Hoàng Như Mai lại ít viết. Giáo trình của thầy là những trang viết tay hoặc đánh máy đơn sơ.  Tôi đem điều đó hỏi anh Trần Ngọc Vương, học trên một lớp, người mạnh bạo trong giao tiếp. Anh nói: “Tôi ra nhà nói chuyện cùng cụ rồi. Hãi lắm ông ơi. Thông kim bác cổ. Phương pháp luận tuyệt vời. Có điều cụ chưa muốn viết mà thôi. Cụ không muốn tham gia vào cuộc "nội chiến" nào cả”.


À, té ra khi chúng tôi vào học, dư âm của cuộc đấu tranh tư tưởng 1968-1969 ở khoa Văn còn váng vất. Sau này, tôi có hỏi GS Bùi Duy Tân về vụ đó, thầy nói: “Cụ Cẩn (GS Nguyễn Tài Cẩn), cụ Hượu (PGS Trần Đình Hượu), cụ Mai (GS Hoàng Như Mai) như hạc bay trên trời ấy. Các cụ có những mối quan hệ khác, chấp gì lũ trẻ ranh". Ngẫm ra thì đúng vậy. Thầy không viết chắc hoặc vì cầu toàn hoặc vì không muốn trái lòng mình. Rồi thầy chuyển vô Nam công tác.


Năm 1986, khoa Ngữ văn - Đại học Tổng hợp Hà Nội kỷ niệm 30 năm thành lập. Nghèo quá, tôi và GS Nguyễn Lộc được khoa giao mang chiếc quạt bàn Washin của Trung Quốc ra chợ trời bán được gần 2 chỉ vàng, lấy tiền tổ chức. Thầy từ TP Hồ Chí Minh ra dự. Giữa hội trường khu thể thao Tăng Bạt Hổ, thầy sang sảng kể câu chuyện nhớ đời:


- Tôi được các anh giao cho viết cái giáo trình. Hai năm không được chữ nào. Còn hai tháng nữa cũng chả được chữ nào. Đúng hai tuần nữa, lo quá. Có cậu sinh viên cũ ghé chơi, rủ đi ăn thịt chó. Tôi đánh một bụng no căng. Về ngồi vào bàn. Mười ngày. Xong. Tôi nghĩ mãi tại sao lại vậy. Sau tôi mới nghiệm ra là, để viết được giáo trình, phải có tí chất... cầy trong người các anh ạ. Thế đấy!


Năm 1991, từ Phnom Penh (Campuchia), tôi về Sài Gòn thăm thầy. Thầy hào hứng kể về “năm cỗ xe tăng” nghệ thuật (năm đoàn kịch Thủ đô) ào ạt tiến công vào thành phố, tạo nên một cú sốc văn hóa, thay đổi gu thẩm mỹ của công chúng vốn quen cho rằng cải lương là nhất. Thầy nói: “Kịch, chỉ có kịch sẽ cải tạo thẩm mĩ, thức tỉnh lương tâm, cải cách xã hội!”. Giọng thầy lại hào sảng như năm nào trên bục giảng, một niềm đam mê như ngày nào chàng thanh niên học Luật khoa, đi diễn kịch, dấn thân theo cách mạng, làm nhà giáo văn chương.


Thầy dạy học lấy tâm truyền tâm, hối thúc sự đam mê của học trò. Vững vàng đi qua mọi biến cố theo kiểu “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Cái bất biến của thầy chính là nhân cách. Thầy dạy ít nhưng chúng tôi học được thật nhiều là ở chỗ đó.

 
GS - NGND Hoàng Như Mai sinh ngày 3 tháng 8 năm Kỷ Mùi (26/9/1919) tại phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Quê quán: thôn Nội Am, xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông là học sinh Trường Bưởi Hà Nội, sinh viên Đại học Y khoa và Đại học Luật...

Ông từng là Hiệu trưởng trường Tư thục Phan Thanh, Thái Bình (1948); Hiệu trưởng trường Sư phạm Việt Bắc (1951); Hiệu trưởng trường Sư phạm Trung cấp T.Ư (1953).

Từ năm 1959, GS Hoàng Như Mai làm công tác giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, rồi chuyển sang giảng dạy tại trường ĐH Tổng hợp TP Hồ Chí Minh từ năm 1980. Năm 1982, ông được Nhà nước phong chức danh Giáo sư.

Từ năm 1997 đến nay, ông là Hiệu trưởng trường THPT Trương Vĩnh Ký; đồng thời là Chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy Văn học Thành phố (từ 1988 đến nay). GS Hoàng Như Mai được phong danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 1990 và được Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng Nhất.

GS Hoàng Như Mai là tác giả của nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu có giá trị: Tiếng trống Hà Hồi (kịch, 1948); Dòng sông biên giới (kịch, viết 1957, xuất bản 2001); Vẽ chân dung cụ Đồ Chiểu (kịch, viết 1982, xuất bản 2001); Trao cho nhau cuộc đời (thơ, 1993); Văn học Việt Nam hiện đại (NXB Giáo Dục, 1961);  Trần Hữu Trang - soạn giả ca kịch cải lương (1982); Nhà soạn kịch cải lương Trần Hữu Trang (1986); Nhận định về cải lương (1986); Giới thiệu sân khấu cải lương (1986); Thơ một thời (1989); Hoàng Như Mai tuyển tập (NXB Giáo Dục, 2005).

Nguyễn Hùng Vĩ

(Giảng viên khoa Văn học, Đại học KHXHNV

 – Đại học Quốc gia Hà Nội)