Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Hà Nội sẽ tổ chức Lễ kỷ niệm 650 năm ngày mất danh nhân Chu Văn An

Trần Long
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Thành uỷ Hà Nội vừa có Thông báo số 18-TB/TU về kết luận của Thường trực Thành ủy về việc tổ chức Lễ kỷ niệm 650 năm ngày mất danh nhân Chu Văn An (1370 - 2020).

Theo nội dung thông báo, Thường trực Thành uỷ đã họp ngày 2/11/2020, nghe Ban cán sự Đảng UBND TP báo cáo về việc tổ chức Lễ kỷ niệm 650 năm ngày mất danh nhân Chu Văn An (1370 - 2020). Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Vưong Đình Huệ chủ trì Hội nghị. 
 Danh nhân Chu Văn An. (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia).

Sau khi nghe Ban cán sự Đảng UBND TP trình bày Tờ trình số 532- TTr/BCS, ngày 17/9/2020 và các ý kiến phát biểu tại hội nghị, Thường trục Thành uỷ thống nhất kết luận: Đồng ý về chủ trương Lễ kỷ niệm 650 năm ngày mất danh nhân Chu Văn An (1370 - 2020) theo đề xuất của Ban cán sự Đảng UBND TP tại Tờ trình số 532-TTr/BCS ngày 17/9/2020.
Giao Ban cán sự Đảng UBND TP chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan phối hợp Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam tổ chức Lễ kỷ niệm 650 năm ngày mất danh nhân Chu Văn An đảm bảo an toàn, thiết thực, ý nghĩa, đúng quy định và phù hợp căn cứ tình hình diễn biến dịch Covid-19 trên địa bàn TP. Đồng thời, lưu ý một số nội dung sau: Về Lễ dâng hương, bổ sung chương trình tổ chức đoàn lãnh đạo TP dâng hương tại Đền thờ Chu Văn An (TP Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Về Lễ kỷ niệm, thời gian tổ chức vào 20 giờ ngày 20/11/2020 tại khu di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám với 500 đại biểu. Chương trình nghệ thuật gắn vói hình ảnh của danh nhân Chu Văn An và chào mừng kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2020).
Thường trục Thành uỷ chỉ đạo Đài PT&TH Hà Nội tổ chức truyền hình trực tiếp Lễ kỷ niệm. Nghiên cứu thực hiện phim tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân Chu Văn An.
Danh nhân Chu Văn An (sinh năm 1292 tại xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm) - nay là làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, danh nhân Chu Văn An "tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, không cầu lợi lộc". Sinh thời, ông được dân chúng tôn là "Vạn thế sư biểu" - nghĩa là người thầy chuẩn mực muôn đời của Việt Nam.
Ở thời của ông, trường học còn rất hiếm. Cả nước chỉ có một trường quốc lập là Quốc Tử Giám ở kinh đô dành cho con vua quan, sau mở rộng cho những người tài trong Nhân dân theo học. Thấy con em Nhân dân phần lớn thất học, ông đã mở trường Huỳnh Cung tại quê nhà (Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội ngày nay) để dạy học. Trong khoa thi năm 1314, hai học trò của ông đỗ Thái học sinh (tương đương học vị tiến sĩ) gây tiếng vang lớn trong giới sĩ tử đương thời. Thầy giáo Chu Văn An và trường Huỳnh Cung được cả nước biết đến.
Sau đó, ông được vua Trần Minh Tông mời ra làm Tư nghiệp (hiệu trưởng) trường Quốc Tử Giám, trông coi việc học cho cả nước. Ông cho mở mang trường, viết Tứ thư thuyết ước, tóm tắt bốn bộ sách lớn là Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học và Trung dung làm giáo trình dạy học. Kể từ thời Chu Văn An trở về sau, Quốc Tử Giám mỗi ngày được củng cố, mở rộng.
Khi vua Trần Dụ Tông lên ngôi, quyền gian liên kết hoành hành, giặc giã dấy lên cướp bóc. Thấy chính sự bê bối, nhà giáo Chu Văn An đã viết Thất trảm sớ đòi chém 7 kẻ nịnh thần đều là người quyền thế được vua yêu. Dù bị vua Dụ Tông phớt lờ, tấu sớ của hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám gây chấn động dư luận bởi theo quy chế lúc bấy giờ, chỉ quan Ngự sử mới được quyền can gián vua.
Dâng sớ bất thành, ông về Chí Linh (Hải Dương) mở trường dạy học. Từ khi ông về, vùng đất này dấy lên phong trào học tập, nhiều người học giỏi nổi tiếng. Cuối đời, ông sống thanh thản trong cảnh nghèo, vui với lớp học, văn chương. Triều đình nhiều lần mời về nhưng ông từ chối. Tháng 11/1370, ông trút hơi thở cuối cùng. Sau khi mất, triều đình đưa ông vào thờ ở Văn Miếu, xem ông ngang hàng với những bậc thánh hiền ngày xưa.
Ông được coi là người thầy của mọi thời đại, nhà giáo lỗi lạc của Việt Nam. Ông đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp dạy học với triết lý giáo dục nhân văn, không phân biệt giàu nghèo, học đi đôi với thực hành, học suốt đời để biết, để làm việc và cống hiến cho xã hội. Tư tưởng đó của ông không những có ảnh hưởng tới nhiều thế hệ người Việt Nam mà còn góp phần phát triển các giá trị nhân văn trong khu vực. Quan điểm giáo dục của ông có những giá trị tiến bộ vượt thời đại và gần gũi với mục đích giáo dục của thế giới hiện nay.