Hài hòa hai mục tiêu tăng trưởng và lạm phát

Đức Minh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Tăng trưởng có tầm quan trọng hàng đầu bởi nền kinh tế trong 2 năm qua đã bị đại dịch Covid-19 kéo giảm thấp nhất trong hơn 30 năm và chưa bằng một nửa tốc độ tăng của 2 năm trước đó.

Trong đó năm 2021 là năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm 2021 - 2025 của chiến lược 10 năm 2021 - 2030 tăng thấp hơn. Điều đó tác động tiêu cực đến việc thực hiện mục tiêu trước mắt.

Người tiêu dùng mua hàng tại siêu thị BigC Thăng Long, Hà Nội. Ảnh: Công Hùng
Người tiêu dùng mua hàng tại siêu thị BigC Thăng Long, Hà Nội. Ảnh: Công Hùng

Hai mục tiêu quan trọng

Từ thực tế trên, tăng trưởng năm 2022 theo mục tiêu là rất cần thiết, thậm chí còn phấn đấu đạt cao hơn kế hoạch. Yêu cầu này cũng là cần thiết để “cảnh tỉnh” tư tưởng chủ quan thỏa mãn khi chỉ thấy tốc độ tăng cao mà không nhìn về quy mô tuyệt đối của GDP.

Bên cạnh tăng trưởng, lạm phát có tầm quan trọng không kém vì nhiều nguyên nhân. Mức sống thực tế đã bị dịch Covid-19 làm “bào mòn” trong thời gian dài (tổng mức bán lẻ sau khi loại bỏ yếu tố tăng giá trong nhiều năm trước tăng khá cao, thì năm 2020 giảm 1,5%, năm 2021 giảm 6,2%). Do đó, không thể tiếp tục bị “bào mòn” bởi lạm phát cao.

Lạm phát có liên quan trực tiếp đến chủ thể đông nhất trên thị trường là người tiêu dùng, nhất là những người nghèo, người thu nhập thấp. Lạm phát thực chất còn làm mất giá đồng tiền, ảnh hưởng đến tâm lý, lòng tin vào đồng tiền quốc gia. Đồng thời còn dễ dẫn đến các trạng thái đầu cơ, găm giữ vàng, ngoại tệ, hàng hóa…

Việc hài hòa hai mục tiêu xuất phát từ tăng trưởng, lạm phát có quan hệ, tác động lớn đối với nhau. Tăng trưởng cao sẽ tăng cung hàng hóa, góp phần kiềm chế lạm phát. Nhưng để tăng trưởng cũng đòi hỏi tăng vốn đầu tư, nới lỏng chính sách tài khóa – tiền tệ như tăng tín dụng, tăng bội chi ngân sách, tăng tiêu dùng cuối cùng… Các giải pháp đó lại dễ gây ra lạm phát cao.

Vậy hài hòa hai mục tiêu như thế nào? Vấn đề lớn nhất của việc hài hòa này là “liều lượng” của các giải pháp đối với các mục tiêu phải hài hòa. Các yếu tố của tăng trưởng cần được xem xét giới hạn “liều lượng” một cách hợp lý.

Ảnh: Công Hùng
Ảnh: Công Hùng

Thận trọng triển khai các giải pháp

Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP mấy năm nay đạt ở mức 33%. Năm 2022 do mục tiêu tăng trưởng cao hơn nên tỷ lệ này có thể cao hơn một vài phần trăm. Trong 6 tháng, tỷ lệ này mới chỉ đạt dưới 30%. Theo đó, dư địa về vốn đầu tư còn khá rộng. Để tăng vốn, cần thực hiện hết kế hoạch cả năm nguồn vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước sau 7 tháng còn thấp xa so với mốc 58%.

Vì vậy, nếu bộ, ngành, tỉnh, TP nào thực hiện quá chậm thì kiên quyết điều chuyển. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân không đạt được kế hoạch vốn do giá vật liệu xâu dựng quá cao. Do vậy, cần rà soát nguyên nhân để khắc phục kịp thời. Tiếp đến là yếu tố tín dụng, nếu 2 năm trước đã cao ở mức 12,17% (2020) và 13,6% (2021), nếu năm 2022 mục tiêu tăng trưởng cao gấp đôi, mà tín dụng chỉ định hướng 14% là thấp, nên có thể đưa lên 16 - 18% để tăng khởi nghiệp, hạn chế tình trạng DN rời khỏi thị trường.

Một yếu tố quan trọng của tăng trưởng là tiêu dùng cuối cùng tăng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (6 tháng là 6,06% so với 6,42%). Do tâm lý tiết kiệm, thậm chí là “thắt lưng buộc bụng” hình thành sau hơn 2 năm bị đại dịch Covid-19 làm giảm công ăn việc làm, thu nhập, mức sống thực tế… Vì vậy, cần tiếp tục kích cầu bằng các biện pháp như giảm hơn nữa thuế suất giá trị hàng hóa, cắt giảm thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng dầu, giảm thuế thu nhập cá nhân…

Ngoài đầu tư, tiêu dùng, còn có yếu tố xuất siêu. Mặc dù 7 tháng năm 2022 vẫn còn xuất siêu, nhưng mức này đã giảm rất mạnh so với 6 năm trước. Trong khi nhập siêu về dịch vụ còn rất lớn và tăng so với cùng kỳ. Nhập siêu sẽ hạn chế tăng trưởng sản xuất ở trong nước. Để xuất siêu, ngoài các biện pháp cơ bản là tăng hiệu quả và sức cạnh tranh, đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ, giảm thiểu tính gia công, lắp ráp, kiểm soát chặt hơn nữa tình trạng nhập lậu, gian lận thương mại, cần quan tâm đến xuất xứ hàng hóa nhập khẩu.

Đồng thời phải tính đến tỷ giá VND/USD, bởi tăng giá USD vừa khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, vừa ứng phó với sức ép của tăng giá USD trên thế giới… Tốc độ tăng giá USD ở Việt Nam sau 7 tháng đã ở mức 2,14%, có nghĩa là không còn giữ được ở mức định hướng 2% như trước đây, nhưng cả năm 2022 chỉ nên ở mức dưới 3,5%. Nếu cao hơn sẽ tác động đến lạm phát, găm giữ ngoại tệ, lòng tin vào đồng tiền quốc gia sau nhiều năm mới đạt được…

Đối với lạm phát, nhờ CPI bình quân 7 tháng mới ở mức 2,54% - còn thấp hơn mục tiêu khoảng 4%. Trong khi đó tổng cầu còn yếu so với tổng cung. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP còn ở mức dưới 30% - thấp hơn tỷ lệ của cùng kỳ trong nhiều năm trước. Tỷ lệ thực hiện dự toán năm của tổng thu ngân sách cao hơn nhiều so với tổng chi (77,5% so với 47,2%); so với cùng kỳ năm trước, thu tăng cao hơn chi (18,1% so với 3,7%).

Tình hình đó đã dẫn đến bội thu ngân sách khá cao (250,8 nghìn tỷ đồng), một kết quả nổi bật trong nhiều năm qua. Mặc dù còn có ý kiến khác nhau về bội thu ngân sách trong thời gian qua, nhưng đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm cho CPI 7 tháng còn ở mức thấp.

 

Vừa qua, giá xăng dầu đã giảm mạnh, nhưng giá giao thông tháng 7 chỉ giảm 2,85% so với tháng 6 và giá nhiều loại hàng hóa, dịch vụ khác cũng không giảm theo tương ứng, chứng tỏ khâu lưu thông phân phối có vấn đề và người sản xuất, người tiêu dùng chưa được hưởng lợi…

Đọc tiếp