Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Khúc Chinh phụ ngâm thời hiện đại

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Một tập giấy cũ, một mặt đã qua sử dụng, mặt kia là bản viết tay bài thơ dài 257 câu có tựa đề “Mình làm dâu quân đội”.

Bà gọi đó là bài “tấu” và vẫn giữ riêng mình cho đến cuối đời. Bài thơ khá độc đáo với nhiều ý lạ, nhưng tôi ấn tượng nhất hai câu: “Thời thế tạo anh hùng/ Thời thế cũng tạo điệp trùng vọng phu”.
Bà Vũ Thị Vinh Hương (phải) giới thiệu những kỷ vật của gia đình.
Bà Vũ Thị Vinh Hương (phải) giới thiệu những kỷ vật của gia đình.
Cái thời cả nước mình từng điệp trùng những hòn vọng phu. Trong số đó có bà - cô giáo Vũ Thị Vinh Hương, phu nhân của cố Trung tướng Văn Cương - nguyên Hiệu trưởng trường Sĩ quan Chính trị. Là những người đầu tiên được bà giới thiệu bài thơ, chúng tôi cứ liên tưởng đến một khúc Chinh phụ ngâm của thời hiện đại

Đám cưới ly kỳ và 28 năm vọng phu

Năm 1948, cô giáo Vũ Thị Vinh Hương được bà cô “gắp mối” cho anh “cán bộ Việt Minh” Văn Cương. Lần đầu cô Hương cùng mẹ mình nhìn thấy anh trong cuộc mít tinh quần chúng mà anh là người diễn thuyết. Thế rồi mẹ cô nói: “Có bà cô giới thiệu, tao thấy anh đó cũng được, ăn nói với bà con cũng tử tế”. Cô giáo Hương giãy nảy: “Mẹ đang ốm đau thế này, con bụng dạ nào mà đi lấy chồng”. Mẹ nói: “Mẹ biết mình ốm đau, nên cũng muốn con có nơi chốn để lỡ có bề gì cũng được lòng thanh thản”.

Về phía anh, gia đình và đoàn thể cũng  đã nhắm cho mấy cô, nhưng anh không ưng. Thời gian qua đi, cũng chỉ có vài lần gặp gỡ, mấy câu chuyện ngắn ngủi, cô giáo Hương nói cho thêm thời gian suy nghĩ và anh thì “tình trong đã tỏ”. Thế rồi mẹ cô mất, anh quyết chờ đợi. Tưởng đợi chờ cũng chỉ dăm tháng, hóa ra đến ba năm.

Lúc này anh đã là chính trị viên Tiểu đoàn Thiên Đức (bộ đội địa phương Bắc Ninh). Chuẩn bị đến ngày cưới thì xuất hiện thời cơ đánh đồn Tam Á của địch. Tiểu đoàn trưởng đùa: “Thằng Cương sắp cưới vợ rồi, còn tâm trí đâu mà đánh với đấm”. Tự ái, anh nói luôn: “Hoãn cưới, đánh đồn đã, thắng thì về mới cưới”. Anh nói với cô Hương chịu khó chờ mươi hôm, thế là cô lại cuốc bộ hơn 50 cây số về Thái Nguyên. Mười hai ngày sau, có tin lên, anh ấy thắng trận  rồi, nhắn Hương về tổ chức đám cưới.

Bà Hương nhớ lại: “Gọi là cưới chứ có gì đâu. Trên đường đi từ ATK Việt Bắc về xuôi, tôi mua một mét rưỡi vải lụa trắng, tự cắt may áo cánh lấy chỉ dù thêu bông hoa, thế là thành áo cưới. Nhà gái không có ai vì bố mẹ tôi đều đã mất, ông chú bị sốt rét, không đi được, nhờ bạn đi thay cũng không xong vì ông ấy bận tác chiến. Thế là chỉ có một mình với cô em gái. Nhà trai thì có gia đình chú rể tản cư ở Thái Nguyên về. Tiểu đoàn Thiên Đức lo dựng một rạp nhỏ ở sân đình Hoàng Lại. Lễ cưới đơn sơ với khẩu hiệu “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ” treo trên cao. Cưới xong, tiểu đoàn họp luôn rút kinh nghiệm trận đánh Tam Á. Làm gì có phòng riêng cho cô dâu chú rể. Đêm tân hôn, thậm chí cô dâu nằm với mẹ chồng một bên, em gái một bên, nhờ cái phản ở góc chái đình làng Hoàng Lại. Bốn hôm sau, tôi lại trở về Tân trào”.

Hơn 40 năm sau, bà Hương viết lại câu chuyện bằng thơ, không kể tỉ mỉ đám cưới mà “... Thôi hãy gác lại chuyện đám cưới ly kỳ/ Thế hệ chúng mình chẳng thiếu gì tổ khúc “lạc - hùng - bi”/ Tình yêu “cổ” không có những phút, những lời “hiện đại”/ Nhưng ai tán chẳng thay, ai lay chẳng đổi”. Rồi tiếp theo: “Cưới được 4 ngày vợ Bắc, chồng Nam/ Tuổi thanh xuân mỏi mòn chờ đợi/ Người xa trận mạc biệt tăm/ Một mình vượt cạn, nuôi con, bom qua, bão tới/ Một mình đồi vắng, phên thưa, gió lùa trăng dọi”.

Quãng đời 28 năm sau đó dài đằng đẵng. Chừng ấy năm, mà chỉ mấy lần gặp gỡ. Đọc lại những câu thơ của bà, thấy đầy tâm sự nhưng cũng  thật hóm hỉnh: “Bấm đốt hết cả mười ngón tay/ Hai mươi tám đốt đủ đầy/ Vừa khớp hai mươi tám năm bén duyên chồng vợ/ Chưa tính xem được mấy lần gặp gỡ/ Cái kiểu tạt chớp nhoáng trên đường ra chiến khu/ Đồng đội vẫn đùa: “Mày tập kích, được thằng cu”. Bà cũng hiểu, trong lúc cả nước có chiến tranh, bà cũng chỉ là một trong những người có cùng hoàn cảnh: “Ôi, cái số một mình mãi thế ư…!?/ Lý số gì! thời thế tạo anh hùng/ Thời thế cũng tạo điệp trùng vọng phu/ Nhưng chẳng giống cô nàng đầu non xứ Lạng/ Hay cô nàng ven biển khơi Đất Quảng/ Đứng lỳ hóa đá chờ chồng/ Mà những vọng phu này xuôi ngược, tất tả, long đong/ Đủ thứ việc, thân cò lặn lội”.

Ngày đoàn viên và nỗi niềm chia sẻ

Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, cả nước hân hoan mừng ngày toàn thắng. Bà Hương cứ nghĩ, ông sẽ trở về theo đoàn quân chiến thắng. Nhưng không, suốt mấy năm ròng chẳng thấy tin gì, bà đã nghĩ đến điều xấu nhất và chỉ còn biết trông chờ vào số phận. Lúc này, bà đã là Hiệu trưởng Trường cấp 3 Hàn Thuyên, chỉ biết lao vào công việc để quên đi nỗi khắc khoải chờ chồng.

Ba năm sau, rồi cái ngày ấy chợt đến, nỗi niềm bao lâu nay như vỡ òa: “Năm tháng qua đi... Đầu năm thứ 29/ Chợt lá thư về với túi mận Chiếng Ngân/ Ôi! con tim mình loạn nhịp/ Dòng chữ hoa lên: “Anh sắp được về gần!”/ Ôi! hai mươi tám năm ròng/ ...ngoái lại giật mình!/ Vầng dương xế cứ ngỡ bình minh/ Dõi chân trời, ngóng chờ cánh vạc”. Cũng có chút chạnh lòng: “Đây! Anh thành ông vì mái đầu đã bạc/ Da nướng nắng Lào, vóc gầy như hạc/ Tóc bà cũng vợi xanh, má nhạt mầu hồng…”. Nhưng: “Nước mắt tủi pha lẫn niềm kiêu hãnh/ Nước mắt mừng may người hãy còn đây/… Ơn số mệnh không giữa đường đứt gánh”.

Những năm tháng sau đó, cuộc sống vẫn vô cùng vất vả khó khăn, nhưng với bà, đó là những ngày đoàn viên hạnh phúc vô bờ. Người con trai mà ông bà có được sau lần “tập kích” chớp nhoáng về thăm nhà, đã trưởng thành, tình nguyện lên đường ra mặt trận cũng lành lặn trở về. Hai cô con gái cũng đã trưởng thành... Và niềm vui lớn nhất là ông được chuyển về trường sĩ quan Chính trị đóng ngay tại Bắc Ninh, cách nhà chỉ ba cây số. “Tiếng là gần thế mà ông ấy chỉ về nhà mỗi tuần một vài lần, mãi đến ngày nghỉ hưu thì chính thức vợ chồng mới được gần nhau theo đúng nghĩa” - bà giải thích. Thế nhưng, trong hạnh phúc bà vẫn tâm niệm: “Càng xót xa bao bạn mình bất hạnh/ Hỏi kiếp nào được thấy lại chồng con…” và “Mình chỉ là hát cát chìm dưới đáy/ Nghĩa lý gì đâu bên các Mẹ, các Chị anh hùng”.

Cô giáo Vinh Hương

Tôi thấy tên bà khá lạ. Đem thắc mắc hỏi bà, thì hóa ra bà sinh ra ở xóm Vinh An, trên bờ sông Hương (Huế). Cụ thân sinh ra bà làm việc trong triều đình Huế với chức danh “kinh lịch”, cụ lại mất sớm. Gia cảnh không dư dật gì, nhưng bà cũng được mẹ và họ hàng nội ngoại giúp nuôi dạy và cho ăn học chu đáo. Tốt nghiệp loại ưu trường Thành chung Bắc Ninh, bà được cử làm giám thị trường nữ học Đồng Khánh sơ tán ở Hưng Yên.

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời phải đối mặt với hàng loạt thử thách, nhưng đã chọn ưu tiên 2 việc: Diệt giặc đói và giặc dốt. Bà Hương được vinh dự là một trong những giáo sinh tham gia khóa sư phạm đầu tiên đào tạo giáo viên nòng cốt cho các địa phương. Một trong những kỷ niệm không bao giờ quên của Bà là lần được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người đến dự bế giảng khóa học: “Niềm vui sướng bất ngờ/ Lễ tốt nghiệp được CỤ HỒ đến dự/ Ôi! “ÔNG VUA MỚI” thông tuệ, bình dị, thân dân/ Đã chinh phục lớp trẻ hết lòng theo Cách mạng”.

Sau khóa học, bà Hương về dạy tại Bắc Ninh. Nhưng đến khi quân Pháp chiếm Bắc Ninh, ta thực hiện tiêu thổ kháng chiến, ngành giáo dục Bắc Ninh, Bắc Giang sơ tán lên ATK Thái Nguyên. Rồi bà được chuyển sang công tác tại T.Ư Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Ba năm tham gia công tác hội, bà vinh dự được gặp Bác Hồ bốn lần, được cùng tập thể chị em chụp ảnh chung với Bác. Đến giờ bà vẫn lưu những bức ảnh ấy như những bảo vật trong nhà.

Năm 1953, theo yêu cầu của ngành giáo dục, bà quay trở lại với nghề dạy học, đồng thời vẫn tham gia công tác phụ nữ. Bà công tác ở trường Hàn Thuyên trong những giai đoạn khó khăn nhất của đất nước nói chung. Chiến tranh vào giai đoạn ác liệt nhất, mặt trận cần thêm quân. Theo chế độ, gia đình có chồng đang chiến đấu tại chiến trường xa, nhà chỉ có một con trai duy nhất được miễn nhập ngũ, nhưng khi con ngỏ ý xung phong lên đường, bà Hương đồng ý. Nhiều lứa học sinh trường Hàn Thuyên cũng tòng quân ra trận, trong đó có một tốp học sinh nữ khối 10 vừa tốt nghiệp năm 1972. Cô Hiệu trưởng rất thương các em, bà hiểu rằng, ở mặt trận, những nam quân nhân khó một thì nữ khó gấp đôi, nên tập trung các em lại, dặn dò chỉ bảo trước lúc lên đường. Bà còn dành chút tiền mua những đồ dùng cần thiết cho các em nữ khó khăn nhất trong nhóm.

Mặc dù đây chỉ là lần đầu tiên được gặp bà, nhưng tôi cứ thấy hình như đã thấy bà ở đâu đó. Lục lọi mãi trong ký ức mà vẫn không thể nhớ nổi. Rồi chợt tôi hiểu ra đó chính là hình ảnh những cô giáo đã dạy tôi thời phổ thông. Không phải một người cụ thể nào mà là tổng hòa của những khuôn, những nét đẹp của các cô giáo một thời thanh xuân của tôi.

Vĩ thanh

Đến giờ, ở tuổi gần 90, bà vẫn toát lên một vẻ đẹp, không phải kiểu lộng lẫy kiêu sa, mà là một vẻ đẹp đôn hậu, cổ điển theo kiểu phụ nữ Việt. Những cử chỉ, giọng nói của bà, nụ cười và nhất là ánh mắt vẫn ánh lên vẻ đẹp tự bên trong, hiền thục và thông tuệ. Trong căn nhà bà đang sống với người con trai tại Hà Nội có bàn thờ ông. Nhưng điều đặn mỗi tháng, bà vẫn về chăm sóc căn nhà cũ ở Bắc Ninh mà ông bà đã sống trong những ngày bên nhau. Nhiều người khuyên bà bán đi, về Hà Nội sống cho đỡ phải đi lại vất vả, nhưng bà không chịu. Bởi nó gắn quá nhiều kỷ niệm với vợ chồng bà. Một ngôi nhà “... mộc mạc đơn sơ, rêu phong bụi lấm/ Di sản tổ tiên, dấu ấn chiến tranh còn đậm”.