Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Thiếu minh bạch, khó đánh thuế tài sản

Nha Trang
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Tại Hội thảo khả năng áp dụng và tác động của Luật Thuế tài sản ở Việt Nam do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức ngày 12/12, các chuyên gia cho rằng, điều quan trọng khi ban hành Luật Thuế tài sản hay một Luật thuế mới là tính minh bạch và trách nhiệm giải trình ở ngân sách của các cấp.

Để có sự đồng thuận của công chúng thay vì những phản ứng dữ dội, phải nâng tính giải trình trong các khoản chi của ngân sách. Bởi tăng thu để phục vụ chi, nhưng chi như thế nào, người dân cần được rõ hiệu quả của các khoản chi đó.

Ngược thông lệ quốc tế

Đề cương Xây dựng dự án Luật Thuế tài sản của Bộ Tài chính với đề xuất đánh thuế nhà trên 700 triệu đồng và ô tô trên 1,5 tỷ đồng, thuế suất 0,3 - 0,4%/năm từng vấp phải nhiều ý kiến trái chiều từ người dân trong năm 2018. PGS.TS Vũ Sỹ Cường (Học viện Tài chính) cho rằng, "thuế tài sản" là tên gọi tương đối mập mờ.
 Ảnh minh họa. 
Hầu hết các quốc gia gọi cụ thể hơn như: Thuế tài sản cố định, thuế tài sản thực hoặc thuế bất động sản, thuế đất đai. PGS.TS Vũ Sỹ Cường cho rằng, tính khả thi của việc đánh thuế này tại Việt Nam là rất khó, các nước giàu thu được bởi tính đồng thuận xã hội cao nhờ sự minh bạch và giải trình trong cả thu và chi. Không những vậy, tại Việt Nam chưa có luật thuế có tên là thuế tài sản nhưng đã có nhiều luật thuế liên quan như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế đất phi nông nghiệp, thuế đăng ký trước bạ…

Đồng quan điểm, PGS.TS Nguyễn Đức Thành - Viện trưởng VERP cũng cho rằng, tài sản trong quá trình hình thành đã chịu nhiều loại thuế. Nếu tiếp tục đánh thuế tài sản mà lại đánh hàng năm là không hiệu quả, không hợp lý và không có cơ sở, gây méo mó nguyên lý đánh thuế. Ông Thành nhận định, thuế tài sản nếu được ban hành như dự thảo hiện nay sẽ làm giảm thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình, người giàu bị nghèo đi. Vì vậy, ông Thành cho rằng đây không phải là một sắc thuế bền vững, nếu chi tiêu công không thúc đẩy phúc lợi và năng suất toàn xã hội. “Việc áp dụng luật thuế đại trà như trong dự thảo là đi ngược lại với thông lệ quốc tế, khó thực hiện” - ông Thành cho biết.

"Việc đánh thuế tài sản sẽ ảnh hưởng đến chi tiêu hộ gia đình. Trong đó, với phương án Bộ Tài chính đưa ra thì chi tiêu hộ gia đình sẽ giảm trung bình khoảng 850.000 đồng/hộ. Còn với phương án ngưỡng 1 tỷ đồng, chi tiêu giảm khoảng 800.000 đồng/hộ; ngưỡng 2 tỷ đồng chi tiêu giảm trung bình 700.000 đồng/hộ." - TS Nguyễn Việt Cường - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Mekong

Tránh các loại thuế “na ná” nhau

Theo các diễn giả, để xây dựng một sắc thuế mới phải tuân thủ theo nhiều nguyên tắc như tính dễ thực thi, phù hợp và tránh bị trùng với những sắc thuế “ná ná” như thuế tài sản. “Không nên dễ dãi đưa ra một luật thuế như vậy vì phải xác định rõ ràng việc đánh thuế tài sản này là để điều chỉnh hành vi hay tăng thu cho địa phương? Cần tập trung vào cách xây dựng cơ chế thu và cách sử dụng nguồn thu đó như nào theo thông lệ quốc tế. Và nên tập trung vào thuế địa phương để đẩy mạnh quy hoạch khu dân cư theo tốc độ phát triển. Thuế tài sản muốn lâu bền phải tránh trùng với thuế tiêu thụ đặc biệt hay thuế trước bạ” - TS Nguyễn Đức Thành chia sẻ.

Ngoài ra, khi ban hành một Luật thuế mới, điều quan trọng là tính minh bạch và trách nhiệm giải trình ở ngân sách của các cấp. Để có sự đồng thuận của công chúng thay vì những phản ứng dữ dội, phải nâng tính giải trình trong các khoản chi của ngân sách. Bởi tăng thu để phục vụ chi nhưng chi như thế nào, người dân cần được rõ hiệu quả của các khoản chi đó. Bên cạnh đó, cần phải xem gốc gác vấn đề thêm luật thuế, thêm sắc thuế mới. Nếu chi tiêu chưa tiết kiệm thì không thể đưa ra luật thuế hay sắc thuế mới được. Đây là gốc rễ của trong cân đối thu chi ngân sách.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy có đến 51 nước trên thế giới thực hiện thu thuế tài sản là bất động sản. Tuy nhiên, trên thực tế thuế bất động sản có lợi cho quốc gia không nhiều. Đóng góp trung bình vào GDP các nước OECD là 2,12%, tại các nước đang phát triển là 0,6%, tại các nền kinh tế chuyển đổi là 0,68%. Tính trung bình tất cả các quốc gia là 1,04% GDP.