Trong những năm qua, chi phí vật tư y tế (VTYT) trong khám chữa bệnh BHYT tăng nhanh hàng năm. Trên cả nước có gần 300 cơ sở KCB thực hiện phẫu thuật thay thủy tinh thể (TTT) nhân tạo. Chi phí thanh toán TTT chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí VTYT trong KCB BHYT. Trên thị trường có hàng trăm loại TTT với mức giá khác nhau, thậm chí cùng một loại TTT nhưng lại có giá khác biệt giữa các địa phương.
Hiện nay, việc tổ chức lựa chọn nhà thầu, sử dụng TTT còn nhiều vướng mắc, bất cập do quy định về tổ chức lựa chọn nhà thầu, mua sắm TTT hay VTYT nói chung như hàng hóa thông thường, chưa thực sự phù hợp với với mặt hàng đặc thù trong KCB. Việc đánh giá loại TTT nào, tiêu chí kỹ thuật nào của TTT đáp ứng được nhu cầu điều trị, việc ghi thông tin đấu thầu, mức thanh toán BHYT đối với TTT như thế nào là phù hợp,… đang là vấn đề cần được các cơ sở KCB, cơ quan quản lý, cũng như các nhà hoạch định chính sách quan tâm.
Sau khi thu thập dữ liệu, khảo sát thực tế tại một số cơ sở KCB trên địa bàn 5 tỉnh, TP có tỷ trọng sử dụng TTT cao trên cả nước (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Đắk Lắk, Nghệ An), nhóm nghiên cứu của BHXH Việt Nam đã thực hiện phân tích dữ liệu, sơ bộ lập báo cáo kết quả hoạt động.
Báo cáo của nhóm nghiên cứu cho biết, đục TTT là nguyên nhân chủ yếu gây mù lòa. Ở Việt Nam, quỹ BHYT thực hiện thanh toán chi phí điều trị bệnh đục TTT cho người tham gia BHYT, chủ yếu được can thiệp bằng phẫu thuật mổ thay TTT nhân tạo bằng phương pháp phaco. Trong đó, quỹ BHYT chi trả cả chi phí điều trị và chi phí TTT nhân tạo. Việc sử dụng TTT trong KCB BHYT năm 2016 tăng mạnh so với năm 2015. Nếu như, năm 2015, số lượng TTT sử dụng là 177,246 thì năm 2016, số lượng sử dụng là 237,414, tăng 34%.
Nhóm nghiên cứu cũng chỉ rõ, một số bất cập trong đấu thầu TTT liên quan đến giá, thông số kỹ thuật, đấu thầu TTT,…
Theo Nhóm nghiên cứu, vấn đề cấp thiết hiện nay là xác định mức giá tối đa thanh toán BHYT như thế nào cho phù hợp, dựa vào thông số kỹ thuật nào. Bên cạnh đó phải có các công cụ để công tác đấu thầu, mua sắm hiệu quả, phù hợp với mặt hàng VTYT để bệnh viện có danh mục VTYT phong phú, chất lượng phù hợp với giá cả, nhà cung ứng tốt, đáp ứng yêu cầu của cơ sở KCB kịp thời cho người bệnh.
Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất 4 giải pháp: Chuẩn hóa danh mục VTYT, trong đó có TTT nhân tạo, bao gồm tên thương hiệu, mã hiệu, nước sản xuất, hãng sản xuất với đầy đủ các thông số kỹ thuật; Công bố kết quả đấu thầu tại các địa phương, các cơ sở KCB; Hướng dẫn, chỉ đạo, điều chỉnh, thương thảo với nhà thầu về kết quả đấu thầu giá cao bất hợp lý, xây dựng kế hoạch, nhu cầu đối với danh mục VTYT trong đó có TTT đầy đủ, đảm bảo chất lượng, phù hợp giá cả, đáp ứng yêu cầu của người bệnh; Sửa đổi, hoàn chỉnh quy định đấu thầu VTYT phù hợp với yêu cầu KCB trong các cơ sở y tế.
Các đại biểu tham gia Hội thảo cùng nhau trao đổi ý kiến, chia sẻ kinh nghiệm về tổ chức đấu thầu, giá, cũng như quy định các thông số kỹ thuật của TTT nhân tạo, việc thanh toán BHYT đối với TTT nhân tạo…
Kết luận Hội thảo, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Minh Thảo nhấn mạnh, trước yêu cầu ngày càng cao của người dân cũng như sự phát triển mạnh mẽ của các kỹ thuật y tế, việc già hóa dân số làm cho nhu cầu về dịch vụ kỹ thuật này ngày càng nhiều hơn. Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Minh Thảo chỉ đạo, tổ nghiên cứu tiếp thu các ý kiến đóng góp, hoàn thiện báo cáo khảo sát. Các vấn đề vướng mắc trong thay TTT nhân tạo cần được tháo gỡ, tạo thuận lợi nhất cho người bệnh.