Trong quá trình xây dựng và phát triển, ngành BHXH Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, từng bước khẳng định chính sách BHXH, BHYT là hai chính sách có vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội. Ông có thể chia sẻ cụ thể về một số thành tựu nổi bật mà ngành đã đạt được trong 28 năm qua?
- Phát triển BHXH, BHYT theo hướng bao phủ toàn dân là mục tiêu quan trọng, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Với ý nghĩa đó cùng sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, công tác tổ chức, thực hiện chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm tự nguyện (BHTN) của ngành BHXH Việt Nam trong 28 năm qua đã góp phần đưa các chính sách này ngày càng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực.
Thứ nhất, chủ động, tích cực tham gia xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN. BHXH Việt Nam đã thường xuyên chủ động tổng hợp vướng mắc trong tổ chức, thực hiện các chính sách; phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp đánh giá về tình hình thực hiện chế độ, chính sách và tác động để kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại. Đến nay, chính sách BHXH, BHYT đã từng bước được hoàn thiện theo hướng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và mở rộng phạm vi bao phủ, quyền lợi của người tham gia và thụ hưởng chính sách. Chính sách BHYT đã bảo đảm cho người dân được tiếp cận các dịch vụ y tế và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, hướng đến cải thiện chất lượng sức khỏe người dân và cộng đồng; giảm bớt gánh nặng tài chính khi sử dụng các dịch vụ y tế và làm giảm nguy cơ đói nghèo, đặc biệt đối với người nghèo, cận nghèo, người dân sống ở vùng sâu vùng xa, vùng miền núi.
Thứ hai, công tác truyền thông chính sách, pháp luật được coi trọng, đổi mới cả về nội dung, hình thức theo hướng hiện đại, đa dạng, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm chủ thể, đặc điểm từng vùng miền, phong tục tập quán, trong đó tập trung vào nhóm tham gia BHXH tự nguyện, BHYT theo hộ gia đình; triển khai nhiều giải pháp đẩy mạnh truyền thông trên phạm vi toàn quốc.
Thứ ba, công tác phát triển người tham gia là nhiệm vụ chính trị quan trọng của ngành, góp phần mở rộng độ bao phủ, tiến tới mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân mà các nghị quyết của Đảng, Chính phủ đề ra. Diện bao phủ BHXH, BHYT, BHTN ngày càng được mở rộng với sự tăng trưởng ấn tượng: Số người tham gia BHXH là 17,5 triệu người, đạt 38,08% lực lượng lao động trong độ tuổi; Số người tham gia BHTN tăng từ gần 6 triệu người năm 2009 lên hơn 14,3 triệu người năm 2022, tăng gần 2,4 lần; Số người tham gia BHYT tăng từ 7,1 triệu người năm 1995 lên hơn 91,1 triệu người năm 2022, tăng 12,8 lần, đạt tỷ lệ bao phủ 92,04% dân số - cơ bản hoàn thành mục tiêu BHYT toàn dân.
Thứ tư, công tác giải quyết, chi trả chế độ, chính sách BHXH, BHTN, BHYT được ngành BHXH Việt Nam thực hiện kịp thời, đúng quy định; đặc biệt chuyển đổi hiệu quả phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, việc giải quyết chế độ cho người tham gia căn cứ vào dữ liệu quản lý quá trình tham gia, đảm bảo nguyên tắc "đóng - hưởng"; phương thức hoạt động của hệ thống được đổi mới theo hướng phục vụ.
Kết quả, từ năm 1995 đến hết năm 2022, toàn ngành đã giải quyết cho khoảng hơn 136 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; từ năm 2010 đến hết năm 2022 phối hợp giải quyết cho gần 8,7 triệu người hưởng các chế độ BHTN; đến cuối năm 2022, tổng số người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khoảng 3,3 triệu người; từ năm 2003 đến 2022, toàn ngành đã phối hợp với các cơ sở y tế bảo đảm quyền lợi khám chữa bệnh (KCB) BHYT cho trên 2.368 triệu lượt người.
Đáng chú ý, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến đời sống, lao động, việc làm của người dân và NLĐ, 3 năm qua (từ năm 2020 đến năm 2022), ngành BHXH Việt Nam đã chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ NLĐ và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Đồng thời tập trung huy động mọi nguồn lực, trên nền nguồn dữ liệu sẵn có để triển khai kịp thời các gói hỗ trợ từ quỹ BHXH, BHTN với tổng số tiền hỗ trợ lên trên 47,2 nghìn tỷ đồng.
Thứ năm, công tác quản lý tài chính, đầu tư quỹ. Quỹ BHXH, BHYT đã trở thành các quỹ an sinh lớn nhất, được quản lý, sử dụng đúng mục đích, an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng quản lý BHXH. Quy mô các quỹ bảo hiểm tăng qua từng năm, khẳng định tính bền vững, đảm bảo cân đối trong dài hạn, nhờ đó NLĐ và Nhân dân ngày càng yên tâm, tin tưởng khi tham gia BHXH, BHYT. Tỷ lệ chi từ nguồn Quỹ BHXH ngày càng tăng; tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho BHXH ngày càng giảm, khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng trong việc khuyến khích người dân nâng cao năng lực tự bảo đảm ASXH.
Thứ sáu, công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC), ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và chuyển đổi số của ngành được đặc biệt quan tâm chỉ đạo triển khai quyết liệt.
Những kết quả này có được là nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc, phối hợp tích cực của các Bộ, ngành và địa phương trong công tác tổ chức, thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN; đặc biệt là tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, quyết tâm, nỗ lực vượt khó vươn lên của đội ngũ CCVC trong toàn ngành BHXH Việt Nam để thực hiện tốt công tác đảm bảo ASXH được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
Kết quả ngành BHXH Việt Nam đạt được trong 28 năm qua là rất toàn diện. Trong đó, công tác cải cách hành chính, ứng dụng CNTT, chuyển đổi số của ngành đã mang lại lợi ích lớn cho người tham gia, thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT, BHTN, được các cấp các ngành và cộng đồng xã hội đánh giá cao. Ông đánh giá thế nào về những thay đổi mang tính đột phá này của ngành?
- Với phương châm "Lấy người dân, DN làm chủ thể, trung tâm phục vụ", ngành BHXH Việt Nam đặc biệt coi trọng và đã tập trung mọi nguồn lực, triển khai nhiều giải pháp mạnh mẽ, cắt giảm tối đa TTHC, đẩy mạnh ứng dụng CNTT, chuyển đổi số trong tất cả các hoạt động nghiệp vụ.
Kết quả, đã cắt giảm từ 263 TTHC (năm 2009) xuống chỉ còn 25 TTHC, với 100% TTHC được cung cấp dịch vụ công (DVC) trực tuyến toàn trình và tích hợp trên Cổng DVC BHXH Việt Nam; đồng thời từng bước tích hợp trên Cổng DVC quốc gia; số giờ thực hiện TTHC cho người dân và DN giảm từ 335 giờ/năm (năm 2015) xuống còn trên 100 giờ. Cùng với đó, Ngành đã đưa vào triển khai ứng dụng “VssID - BHXH số” trên nền tảng thiết bị di động, hiện đã có trên 28 triệu tài khoản sử dụng để quản lý, kiểm soát quá trình tham gia, thụ hưởng chính sách; thực hiện các DVC về BHXH, BHYT; sử dụng hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng VssID và thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chíp để đi KCB... Tại Hội nghị ASSA lần thứ 38, BHXH Việt Nam vinh dự nhận Giải thưởng “Thực tiễn hiệu quả” tại hạng mục CNTT cho ứng dụng trên điện thoại thông minh “VssID-BHXH số”.
Việc tích hợp, triển khai các DVC trên Cổng DVC quốc gia được triển khai tích cực, theo đó, toàn ngành BHXH Việt Nam đã tiếp nhận từ Cổng DVC quốc gia, xác nhận quá trình đóng BHTN cho 58,3 nghìn trường hợp phục vụ giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp; hơn 134,8 nghìn lượt giao dịch gia hạn thẻ BHYT theo hộ gia đình, đóng tiếp BHXH tự nguyện thành công; tiếp nhận và giải quyết 10.607 hồ sơ cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Qua 28 năm xây dựng và phát triển, ngành BHXH Việt Nam đã không ngừng phát triển về mọi mặt, vị thế và vai trò của ngành ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và hoàn thành mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân, BHXH Việt Nam cần tập trung những giải pháp gì trong thời gian tới thưa ông?
- Để tiếp tục thực hiện thành công các kế hoạch dài hạn và bền vững hướng tới mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân, chúng tôi xác định các giải pháp theo định hướng “kiến tạo” phải được toàn ngành triển khai với tinh thần chủ động, đồng bộ và toàn diện. Cụ thể, thời gian tới, toàn ngành sẽ tập trung vào các nhóm giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu nêu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá XII; Nghị quyết số 125/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW; các Đề án, dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (theo các lộ trình đến năm 2025, 2030); tổ chức thực hiện có hiệu quả các Luật BHXH, Luật BHYT, Luật Việc làm, Luật An toàn - Vệ sinh lao động,…
Thứ hai, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội tổ chức, thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN; phát triển ngành BHXH Việt Nam phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã hội.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới công tác truyền thông cả về nội dung và hình thức theo hướng chuyên nghiệp, đúng trọng tâm, trọng điểm; phù hợp với từng nhóm đối tượng, trong đó tập trung vào nhóm người tham gia BHXH tự nguyện, BHYT theo hộ gia đình và NLĐ làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Thứ tư, đảm bảo diện bao phủ BHXH, BHYT, BHTN tiếp tục phát triển một cách bền vững; giải quyết, chi trả đầy đủ, kịp thời các quyền lợi về BHXH, BHYT, BHTN cho người tham gia; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN; đặc biệt là công tác thanh tra chuyên ngành; kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm chế độ, chính sách về BHXH, BHYT, BHTN; các hành vi gian lận, trục lợi các quỹ BHXH, BHYT, BHTN.
Thứ sáu, tiếp tục tăng cường và rà soát, đơn giản hóa các TTHC, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các quy trình nghiệp vụ để thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện nhất cho DN, người dân; tiếp tục mở rộng, đa dạng hóa các hình thức cung cấp DVC, nâng cao chất lượng DVC trực tuyến toàn trình của ngành; đẩy mạnh chi trả chế độ qua các tổ chức DVC, chi trả không dùng tiền mặt theo chỉ đạo của Chính phủ; đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ, đảm bảo tốt nhất quyền lợi và tăng mức độ hài lòng với người tham gia.
Thứ bảy, tập trung đẩy mạnh ứng dụng CNTT, CĐS, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống CSDL chuyên ngành về BHXH, BHYT, BHTN, đặc biệt là CSDL quốc gia về bảo hiểm; tích hợp, kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu với các bộ, ngành; nghiên cứu, triển khai các nền tảng, giải pháp kỹ thuật mới phục vụ CĐS của Ngành, nhất là việc xây dựng hệ thống phân tích xử lý dữ liệu lớn (Big Data), áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Đây là những giải pháp mang tính chiến lược, có vài trò bản lề trong việc quản trị và trong công tác phục vụ của Ngành, nhằm đem lại những thuận lợi và lợi ích cao nhất cho Nhân dân, đơn vị, DN của ngành.
Thứ tám, tiếp tục rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn tổ chức bộ máy; xây dựng đội ngũ CCVC có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, nhất là người đứng đầu; phát triển ngành BHXH Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng sự hài lòng của người dân, DN. Tiếp tục duy trì, mở rộng các hoạt động hợp tác song phương và đa phương nhằm huy động, khai thác tối đa các nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế phục vụ cho sự phát triển của Ngành.
Thứ chín, nắm chắc, theo sát tình hình thực tế, nhất là các vấn đề phát sinh gây khó khăn, ảnh hưởng tới ASXH của người dân, hoạt động của DN; chủ động, linh hoạt, sáng tạo, xử lý kịp thời các vướng mắc; hoặc đề xuất cơ quan thẩm quyền tháo gỡ, giải quyết khó khăn, vướng mắc phát sinh, đảm bảo tốt nhất quyền lợi BHXH, BHYT, BHTN cho người NLĐ, DN theo quy định.
Xin cảm ơn ông!