Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Lẹt đẹt vì thiếu chiến lược rõ ràng

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Cần có chiến lược rõ ràng trong việc hỗ trợ DN hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ...

Kinhtedothi - Cần có chiến lược rõ ràng trong việc hỗ trợ DN hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT), có làm được như vậy ngành này mới tận dụng được cơ hội mà các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới mang lại.

Đó là ý kiến của các đại biểu tại Diễn đàn Phát triển các ngành CNHT Việt Nam trong bối cảnh các FTA thế hệ mới, do Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công Thương) tổ chức ngày 30/3.

Tỷ lệ nội địa chỉ đạt 13,2%

Báo cáo điều tra tỷ lệ nội địa hóa của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Việt Nam (JETRO) cho thấy: Hiện, tỷ lệ nội địa hóa của DN Nhật Bản đang hoạt động tại các nước lân cận như Trung Quốc là 64,7%, Thái Lan là 55,5%, Indonesia là 40,5%, Malaysia là 36,0%. Trong khi đó, năm 2015, tình hình mua linh phụ kiện tại chỗ của các DN Nhật Bản đầu tư ở Việt Nam đạt 32,1%, tăng 10% so với kết quả điều tra của năm 2010. Tuy nhiên, nếu tính phần trăm mua từ các DN Việt Nam thì tỷ lệ nội địa không quá 13,2%.
Sản xuất bản mạch điện tử cho hãng LG tại Công ty CP 4P Electronics. 	Ảnh: Hoài Nam
Sản xuất bản mạch điện tử cho hãng LG tại Công ty CP 4P Electronics. Ảnh: Hoài Nam
Theo đại điện Vụ Công nghiệp nặng (Bộ Công Thương), nguyên nhân khiến tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam rất thấp là bởi năng lực và công nghệ sản xuất của các DN CNHT Việt Nam còn hạn chế. Các sản phẩm chủ yếu vẫn là linh kiện, vật liệu đơn giản, giá trị thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Các DN Việt Nam hầu như chưa tiếp cận và đáp ứng được yêu cầu của các khách hàng đối với các sản phẩm CNHT có hàm lượng công nghệ cao.

Bàn thêm về hạn chế của ngành CNHT Việt Nam, GS Phan Đăng Tuất - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách công nghiệp cho biết: Hiện, cả nước mới có 1.383 DN hoạt động trong lĩnh vực CNHT, chia làm 3 nhóm ngành sản xuất là cơ khí, điện tử, nhựa và cao su. So với tổng số 500.000 DN đang hoạt động trên cả nước thì DN CNHT chỉ chiếm 0,3%. “Con số này quá ít để một nước tiến lên công nghiệp hóa. Chúng ta không thể có nền CNHT với từng ấy DN. Theo tính toán, đến năm 2020, cả nước sẽ có khoảng 5.000 DN CNHT; năm 2025, số lượng sẽ tăng lên mức 10.000 - 20.000 DN, lúc đó mới có thể có ngành CNHT” - ông Tuất nhấn mạnh.

Đồng tính với ý kiến này, ông Lê Thanh Thủy - Giám đốc Công ty TNHH Trí Cường (DN gia công chi tiết cơ khí chính xác cho DN có vốn đầu tư nước ngoài - FDI) cho rằng: Khi tham gia vào các FTA với phạm vi rộng và mức độ cam kết sâu đồng nghĩa với việc sản phẩm của Việt Nam sẽ phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm của các nước có lợi thế cạnh tranh vượt trội hơn. Ngoài ra, những hạn chế trong việc đầu tư vào công nghệ hiện đại; thiếu hụt nhân lực trình độ cao… khiến ngành CNHT của Việt Nam mới chỉ dừng lại là mắt xích nhỏ trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Đợi chờ sự hỗ trợ đúng cách

Việc Việt Nam ký kết nhiều FTA sẽ tạo cơ hội cho ngành CNHT chỉ khi cùng với nỗ lực của DN là một hệ thống hành lang pháp lý để phát triển ngành công nghiệp này chứ không phải chỉ là vốn và công nghệ. Ông Atsusuke Kawada - Trưởng Văn phòng đại diện JETRO tại Hà Nội cho rằng: Chính phủ Việt Nam cần có chiến lược rõ ràng cho việc hỗ trợ và nuôi dưỡng các DN CNHT một cách tập trung, triệt để. Hiện, nhiều hãng sản xuất lớn của Nhật Bản hoàn toàn trông cậy vào việc nhập khẩu linh phụ kiện từ Trung Quốc, trong khi nếu được quan tâm hơn, DN Việt Nam hoàn toàn có thể thay thế được. “Liên quan đến các DN chế tạo và sản xuất của Việt Nam, tôi nghĩ là có nhiều DN tư nhân cũng đang rất chú tâm vào việc nâng cao trình độ công nghệ và giá trị gia tăng cho những sản phẩm của DN mình” - ông Atsusuke nhấn mạnh.

Ông Hoàng Minh Trí - Tổng Giám đốc Công ty 4P (DN chuyên cung cấp bản mạch điện tử cho hãng LG) chia sẻ: “Chúng ta là DN mới, không nên làm gì quá phức tạp, nên đi từ thấp tới cao, từng bước một. Chúng tôi cung cấp bản mạch cho Tập đoàn LG cũng là kết quả sau 15 năm hợp tác làm việc, không phải làm ra đến chào là họ mua ngay đâu! Chỉ sau khi đã hợp tác, họ mới chuyển giao công nghệ mềm cho chúng tôi”. Điều đó cho thấy trong quá trình hỗ trợ DN, chính sách cũng cần hướng tới những DN mới, DN khởi nghiệp, bởi những DN này dễ “thấm nhuần” cách thức sản xuất mới, qua đó tham gia vào chuỗi giá trị. Đồng thời, trong quá trình hỗ trợ DN, Nhà nước cần xây dựng các tiêu chuẩn nhất định, DN nào đáp ứng thì mới được hỗ trợ, tránh việc hỗ trợ tràn lan, đánh đồng.