Quy định huy động nguồn lực đầu tư phát triển trong Luật Thủ đô (sửa đổi)

Hồng Thái
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi- Các quy định huy động nguồn lực đầu tư phát triển trong Luật Thủ đô (sửa đổi) theo hướng đẩy mạnh phân quyền, đơn giản hóa quy trình thủ tục, tăng cường biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư nhằm thực hiện các mục tiêu đầu tư phát triển Thủ đô Hà Nội xanh, thông minh, hiện đại.

Phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (Điều 39) là quy định cho phép Hà Nội huy động nguồn lực từ đất để phát triển đường sắt đô thị. Ảnh: Hồng Thái
Phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (Điều 39) là quy định cho phép Hà Nội huy động nguồn lực từ đất để phát triển đường sắt đô thị. Ảnh: Hồng Thái

Đầu tư phát triển Thủ đô Hà Nội xanh, thông minh, hiện đại

Trong Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), quy định về thu hút nguồn lực đầu tư phát triển Thủ đô được quy định từ điều 37 đến điều 45. Các quy định này có quan hệ mật thiết đến các quy định của chương III, nhằm tạo nguồn lực cho việc đầu tư, phát triển hạ tầng, đô thị, nhà ở, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường của Thủ đô.

Các quy định theo hướng đẩy mạnh phân quyền trong lĩnh vực đầu tư, đơn giản hóa quy trình thủ tục đầu tư, tăng cường biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, đa dạng hóa mô hình, phương thức đầu tư mới, qua đó giúp thu hút đầu tư xã hội để hỗ trợ cho nguồn vốn từ ngân sách nhà nước; khai thác hiệu quả nguồn lực đất đai, tài sản công nhằm thực hiện các mục tiêu đầu tư phát triển Thủ đô Hà Nội xanh, thông minh, hiện đại (trọng tâm là phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình trọng điểm về phát triển đô thị, các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, bảo vệ môi trường, nông nghiệp, nông thôn và khoa học công nghệ của Thủ đô)

Việc xây dựng các quy định này là bước cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng phát triển Thủ đô và các chủ trương chính sách về phát triển đô thị nói chung. Một số quy định được kế thừa, tiếp thu các quy định hiện nay đang về cơ chế, chính sách thí điểm tại Khánh Hòa (Nghị quyết số 55/2022/QH15 của Quốc hội), Thành phố Hồ Chí Minh (Nghị quyết số 98/2023/QH15 của Quốc hội) như: Việc tách dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư công nhóm B,C (Điều 37); Đầu tư theo phương thức đối tác công tư trong lĩnh vực văn hóa, thể thao (Điều 38); Thực hiện hình thức hợp đồng BT (Điều 40); Thu hút nhà đầu tư chiến lược (Điều 44).

Bên cạnh đó, còn có các quy định phân quyền mạnh mẽ cho Thủ đô thẩm quyền đầu tư (Điều 43) so với quy định hiện hành của Luật Đầu tư công và Luật Đầu tư; biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trong các lĩnh vực (Điều 45) cao hơn so với quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Đầu tư; các quy định về những mô hình, giải pháp đầu tư mới như: Phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (Điều 39); Thử nghiệm có kiểm soát (giải pháp công nghệ mới, khu phát triển thương mại, văn hóa, quỹ đầu tư mạo hiểm tại Điều 41); Mô hình nhượng quyền kinh doanh, quản lý, liên kết trong khai thác tài sản công lĩnh vực văn hóa, thể thao (Điều 42) là những vấn đề mới hiện chưa có trong quy định của pháp luật.

Các quy định về đầu tư là những giải pháp toàn diện, có tính đột phá để thực hiện những định hướng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra về xây dựng, phát triển Thủ đô theo Nghị quyết số 15-NQ/TW. Trong đó có một số quy định đáng chú ý, như: Phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (Điều 39); Thực hiện hình thức hợp đồng theo phương thức xây dựng - chuyển giao (Điều 40); Về tăng thẩm quyền cho Thành phố trong lĩnh vực đầu tư (Điều 43); Quản lý tài sản công (Điều 42).

Phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng

Phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (Điều 39) là quy định cho phép Thành phố huy động nguồn lực từ đất để phát triển đường sắt đô thị, trong đó việc quy hoạch vùng phụ cận và thu hồi, đấu giá đất trong vùng phụ cận là biện pháp để thu lại giá trị gia tăng từ đất để tạo nguồn lực cho phát triển đường sắt đô thị. Quy định này đã cơ bản thể hiện được về biện pháp, cách thức triển khai thực hiện và giải pháp kết hợp giữa dự án đường sắt đô thị và dự án phát triển đô thị.

Đây là biện pháp quan trọng để giúp Thành phố đẩy nhanh tiến độ phát triển đường sắt đô thị; từ đó, giúp tăng cường khả năng kết nối giao thông, giúp giảm phương tiện giao thông cá nhân từ đó giảm ùn tắc giao thông ở đô thị trung tâm; giảm ô nhiễm không khí; giúp đẩy nhanh quá trình cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị trung tâm, phát triển các đô thị, thành phố vệ tinh, từ đó thực hiện hiệu quả mục tiêu di dời các cơ sở, trường đại học, cao đẳng, bệnh viện, giãn dân ở khu vực đô thị trung tâm.

Ngoài ra, để hoàn thiện hơn, cần xem xét quy định mở rộng việc thực hiện TOD không chỉ trên địa bàn Thủ đô mà còn kết nối đến các đô thị trong vùng Thủ đô. Cần quy định đa dạng các hình thức đấu giá, đấu thầu đối với quyền sử dụng đất để lựa chọn chủ đầu tư; đấu giá, đấu thầu phần diện tích không gian ngầm, khoảng không trên cao đã đầu tư hạ tầng hoặc triển khai dự án mới để tăng khả năng thu hồi giá trị gia tăng khi quy hoạch tại khu vực TOD cho phép tăng mật độ xây dựng không gian trên cao và không gian ngầm. Cần có quy định cho phép Nhà nước thu được giá trị tăng thêm (tiền không gian ngầm, khoảng không) của các công trình hiện hữu trong khu vực TOD khi phát triển thêm, mở rộng, hoặc xây dựng lại công trình hiện hữu.

Đồng thời, cần cân nhắc quy định cho phép được điều chỉnh các chỉ tiêu quy hoạch trong quy hoạch chi tiết của khu vực TOD so với quy hoạch phân khu đã được duyệt trong điều kiện bảo đảm được đồng bộ, phù hợp về khả năng đáp ứng của hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong khu vực để tăng hiệu quả sử dụng đất, tăng giá trị đất đai trong khu vực TOD, qua đó Nhà nước, người dân, nhà đầu tư có thể cùng khai thác và chia sẻ lợi ích gia tăng từ đất.

Thực hiện hình thức hợp đồng theo phương thức xây dựng - chuyển giao

Thực hiện hình thức hợp đồng theo phương thức xây dựng - chuyển giao (Điều 40): Đây là quy định có phần tương tự với quy định về hợp đồng BT tại Nghị quyết số 98/2023/QH15, khi quy định về việc thanh toán hợp đồng BT bằng tiền, vốn đầu tư công (khoản 3); đồng thời còn quy định về việc thanh toán hợp đồng BT bằng quỹ đất, nhà. Các quy định về hình thức hợp đồng BT giúp Thành phố có thêm biện pháp thu hút đầu tư mới, việc thanh toán hợp đồng BT bằng đất, nhà được áp dụng khi vốn đầu tư công khó hoặc không bố trí được; đồng thời, việc áp dụng hợp đồng BT bằng tiền sẽ giúp cho việc triển khai dự án được đẩy nhanh hơn so với quy trình đầu tư công hiện hành.

Một góc Hà Nội
Một góc Hà Nội

Để hoàn thiện thêm về quy định này, đề nghị cần xem xét một số vấn đề như sau: Về phạm vi (khoản 1): Dự thảo Luật đang quy định áp dụng hình thức BT đối với một số lĩnh vực trong đó có lĩnh vực: “xử lý ô nhiễm môi trường” - đây là nội dung là rất rộng, chung chung, không rõ, khó cho việc áp dụng. Mặt khác, liên quan đến vấn đề này, dự thảo đã có nội dung “thoát nước và xử lý nước thải”.

Về điều kiện để áp dụng hình thức hợp đồng BT (khoản 2): Đây là quy định rất khó thực hiện, thực tiễn trước đây, đa số các dự án BT được áp dụng trong trường hợp không bố trí được vốn đầu tư công; việc xác định điều kiện như thế nào là: “trường hợp không có cơ quan, tổ chức đủ năng lực để thực hiện dự án theo hình thức đầu tư công” hoặc xác định “việc thực hiện dự án theo hình thức BT thanh toán bằng vốn đầu tư công có hiệu quả hơn việc thực hiện dự án theo hình thức đầu tư công” là rất khó trong áp dụng pháp luật, dễ dẫn đến cách hiểu khác nhau và chưa rõ cơ quan nào có thẩm quyền xác định việc này.

Về thanh toán hợp đồng BT: Khoản 3 quy định: việc thanh toán dự án đầu tư BT bằng quỹ đất, nhà được thực hiện theo cách thức: (1) Trước tiên tổ chức đấu giá để lấy tiền trả cho nhà đầu tư BT; (2) Trong trường hợp đấu giá không thành thì nhà đầu tư BT được trả bằng quỹ đất, nhà trên cơ sở nguyên tắc ngang giá tại thời điểm thanh toán dự án. Quy định này là rất khó triển khai trên thực tế; bởi lẽ, với quy định này, nhà đầu tư dự án BT sẽ không xác định rõ được việc sẽ nhận được tiền hay quỹ đất, nhà khi đấu thầu dự án và việc thanh toán sẽ phụ thuộc vào quá trình đấu giá tài sản. Do đó, sẽ rất khó thu hút nhà đầu tư tham gia dự án, vì không xác định được phương án thanh toán từ khi đấu thầu dự án.

Đồng thời, việc quy định xác định giá trị dự án BT theo kết quả đấu thầu là chưa phù hợp; bởi lẽ việc thanh toán theo nguyên tắc ngang giá phải dựa trên kết quả quyết toán dự án hoàn thành để đảm bảo tính toán được đúng giá trị của dự án BT. Giá trị giá trị quyết toán hoàn thành sẽ có sự thay đổi (tăng hoặc giảm) so với giá trị dự án khi đấu thầu.

Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về hợp đồng BT một cách hợp lý, phù hợp hơn, đảm bảo tính khả thi khi triển khai thực hiện.

Tăng thẩm quyền cho Hà Nội trong lĩnh vực đầu tư

Về tăng thẩm quyền cho Thành phố trong lĩnh vực đầu tư (Điều 43): Các quy định tại điều này đã tăng thẩm quyền mạnh mẽ cho Hà Nội về đầu tư công và đầu tư tư nhân so với quy định của Luật Đầu tư công và Luật Đầu tư, trong đó đặc biệt là việc giao thẩm quyền cho Thành phố quyết định chủ trương đầu tư dự án trên 10 nghìn tỷ (thuộc thẩm quyền của Quốc hội theo Luật Đầu tư công). Trong đó, dự án đường sắt đô thị không bị giới hạn mức vốn, còn đối với các loại dự án khác không vượt quá 20.000 tỷ đồng. Đây là quy định rất cần thiết, trao quyền chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho Hà Nội; mặt khác việc quy định giới hạn 10 nghìn tỷ đồng đã có từ Luật Đầu tư công năm 2014, đến nay đã không còn thực sự phù hợp.

Tuy nhiên, việc giới hạn đến 20 nghìn tỷ đồng đối với các dự án khác là chưa rõ về cơ sở lựa chọn mức này. Thực tế có những dự án trên 20 nghìn tỷ đồng hoàn toàn thuộc nguồn vốn của Thành phố, nằm trên địa bàn Thành phố, ít có sự tác động đến địa phương khác cùng cần giao cho Thành phố chủ động quyết định (như dự án các cầu vượt sông Hồng tới  đây có thể vượt mức 20 nghìn tỷ đồng).

Quản lý tài sản công

Quản lý tài sản công (Điều 42): Quy định cho phép Thành phố được nhượng quyền kinh doanh, quản lý các công trình hạ tầng văn hóa, thể thao nhằm sử dụng, khai thác hiệu quả công trình, tạo nguồn thu để tái đầu tư, bảo dưỡng, phát triển công trình, tăng khả năng tự chủ của các đơn vị sự nghiệp. Đây là quy định rất phù hợp với chủ trương, định hướng chỉ đạo và tình hình thực tiễn.

Để hoàn thiện quy định này cần xem xét phạm vi có thể mở rộng sang các lĩnh vực khác hay không (ví dụ như y tế, giáo dục). Đồng thời cần xem xét lại việc xác định các công trình này là trên địa bàn Thành phố (cả của Trung ương và của Hà Nội) hay chỉ riêng các công trình do Hà Nội quản lý.

Cơ bản tán thành chính sách trong dự thảo Luật

Báo cáo thẩm tra Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi) về các chính sách tài chính, ngân sách và huy động nguồn lực phát triển Thủ đô (Chương IV), Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và các cơ quan tham gia thẩm tra cơ bản tán thành với các chính sách này trong dự thảo Luật.

Để bảo đảm tính khả thi, Ủy ban Pháp luật đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát, đối với mỗi chính sách cần xác định rõ nội dung, phạm vi, đối tượng phân quyền và cơ chế phân cấp, ủy quyền tiếp gắn với chế độ trách nhiệm; xác định cụ thể tiêu chuẩn, tiêu chí và lượng hóa tối đa các chính sách đặc thù áp dụng cho Thủ đô, hạn chế những quy định không rõ quy phạm.

Ngoài ra, xác định rõ các trường hợp phân quyền toàn bộ; các thẩm quyền không được phân cấp, ủy quyền tiếp; các thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục chung hoặc theo trình tự, thủ tục do chính quyền Thành phố quy định; đối với những nội dung giao UBND quyết định thì nên giao HĐND ban hành quy định về trình tự, thủ tục thực hiện thẩm quyền đó.