Sáng kiến được thực hiện bởi tác giả Nguyễn Tấn Hoàng và các đồng tác giả: Triệu Quốc Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn, Nguyễn Phương Cảo, Bùi Tấn Hùng, Phạm Thanh Tú, Đỗ Ngọc Tân là những cán bộ lãnh đạo, kỹ sư của Công ty Vận chuyển khí Đông Nam Bộ (KDN) và Công ty Dịch vụ Khí – 02 đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS).
Công trình Giàn nén khí mỏ Rồng – Đồi mồi (DGCP) là dự án do PVGASlàm chủ đầu tư và được đưa vào vận hành từ tháng 11/2010. Công ty Vận chuyển khí Đông Nam Bộ được PV GAS giao quản lý, giám sát vận hành và Xí nghiệp khai thác Các công trình khí - Vietsovpetro là đơn vị được PVGAS thuê trực tiếp vận hành công trình. Công trình được thiết kế xây dựng gồm 2 tổ hợp máy nén khí cao áp với công suất nén là 900 ngàn m3 khí/ngày đêm, nhằm thu gom toàn bộ lượng khí đồng hành của khu vực mỏ Rồng – Đồi Mồi để nén trở lại vào hệ thống gaslift chung của Vietsovpetro. Lượng khí gaslift bổ sung của giàn nén khí Rồng (DGCP) góp phần chia sẻ một phần nhu cầu gaslift từ giàn nén khí Trung tâm (CCP), gián tiếp làm tăng lượng khí cấp về bờ đáp ứng một phần nhu cầu khí của thị trường khu vực Đông Nam bộ. Trải qua quá trình gần 10 năm hoạt động, đội ngũ cán bộ, kỹ sư công tác nơi đây đã nghiên cứu, áp dụng nhiều giải pháp kỹ thuật, sáng kiến khoa học để đảm bảo sự hoạt động ổn định, tin cậy, hiệu quả của hệ thống thiết bị; góp phần tăng khả năng thu gom khí đồng hành và tăng lượng khí gaslift cấp cho mỏ Rồng từ giàn DGCP.
Trong các sáng kiến có thể kể đến vào giai đoạn nửa cuối năm 2015, hai máy nén cao áp (GTC-A/B) trên giàn nén khí mỏ Rồng đã suy giảm công suất nén rất nhanh chỉ sau hơn một năm đại tu, mất khoảng 20% lưu lượng so với thời gian trước đây. Việc suy giảm công suất của 02 máy nén không chỉ làm ảnh hưởng đến việc gia tăng sản lượng khí về bờ của PV GAS mà còn ảnh hưởng đến hoạt động khai thác dầu của Vietsovpetro. Trăn trở trước tình hình đó, nhóm cán bộ, kỹ sư Công ty Vận chuyển khí Đông Nam Bộ đã quyết tâm phải nhanh chóng tìm ra giải pháp để khắc phục.
Được sự chỉ đạo sát sao, kịp thời từ Ban lãnh đạo và hơn hết đó là sự đoàn kết nội bộ, nhóm tác giả đã phối hợp với những đơn vị liên quan như Công ty Dịch vụ Khí, Xí nghiệp Khai thác các công trình khí - Vietsovpetro, hãng Solar (hãng sản xuất ra hai máy nén này) để tìm giải pháp tối ưu nhất có thể. Sau một thời gian dày công nghiên cứu, rà soát đánh giá và loại trừ nguyên nhân thì nhóm tác giả đã tìm ra nguyên nhân cụ thể xuất phát từ hai nhân tố chính: Một là nguồn khí đầu vào bẩn, chứa nhiều paraffin cuốn vào trong máy nén làm bẩn các tầng cánh của LP, HP Comp và tỷ trọng khí ngày càng nhẹ so với lúc thiết kế khiến công tác nén càng khó khăn hơn và yêu cầu năng lượng nhiều vì thế động cơ Turbine hoạt động hết công suất; Hai là do vấn đề nội tại của máy vì sự phân bố tỉ số nén giữa hai cấp LP Comp và HP Comp chưa thật sự phù hợp. Các lỗi này không xuất hiện ngay sau thời gian đại tu máy nên các kĩ sư đã rất khó khăn trong việc tìm nguyên nhân.
Từ phân tích trên, các bên đã đưa ra giải pháp là phải kiểm soát nguồn khí đầu vào. Thực hiện phương án cải hoán máy nén (Restage bundle) để phù hợp với tính chất hiện tại của nguồn khí nhằm đảm bảo công suất nén của máy và thời gian hoạt động của máy nén đến chu kỳ đại tu kế tiếp.
Đại diện nhóm tác giả, anh Nguyễn Tấn Hoàng chia sẻ, máy nén GTC-A/B là loại máy nén ly tâm 2 cấp, mỗi cấp có cấu tạo gồm các tầng cánh liên tiếp nhau, áp suất dòng khí qua máy nén sẽ được nâng dần qua các tầng cánh. Hình dạng, cấu trúc và số lượng các tầng cánh này tùy thuộc vào dòng máy nén, áp suất đầu vào đầu ra, tính chất của lưu chất nén… Trường hợp cụ thể đối với máy nén GTC-A/B trên giàn DGCP là tính chất của lưu chất nén (tỷ trọng khí) đã thay đổi so với thiết kế, do đó yêu cầu phải thực hiện restage – cấu hình lại máy nén bằng cách thay đổi các tầng cánh về hình dạng, cấu trúc, số lượng để phù hợp với thông số vận hành hiện tại.
Khi giải pháp được đưa vào áp dụng thực tế trên hệ thống thu gom khí ở mỏ Rồng - Đồi Mồi thì máy hoạt động an toàn và ổn định hơn; nhiệt độ đầu ra cấp 1 (LP) giảm khoảng 10oC (175oC xuống 165oC); Sản lượng qua máy tăng từ 3% đến 7%, tổng sản lượng ổn định trong khoảng 1.030-1.080 ksm3/ngày đêm. Thành quả này thể hiện rõ qua con số cụ thể với lượng khí tăng thêm tính ra đã làm lợi cho PV GAS cũng như PVN trên 30 tỷ đồng.
Chia sẻ về giải pháp, nhóm tác giả cho rằng, sáng kiến, cải tiến rất cần sự huy động trí tuệ của tập thể để nhanh chóng đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Trong nhóm tác giả, có người với chức danh giám đốc, phó giám đốc nhưng khi có nhiệm vụ, đặc biệt là sự cố, vấn đề phát sinh thì người làm lãnh đạo cũng không quản ngại khó khăn, tất cả tạo thành một khối liên kết vững chắc vì mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ chung. Có thể nói rằng “cái khó ló cái khôn”, thông qua lao động thực tế các sáng kiến ra đời không những đem lại lợi ích kinh tế cao mà còn thúc đẩy phong trào thi đua trong đơn vị.
Việc giám sát vận hành giàn nén tại các công trình dẫn khí là một công việc tương đối phức tạp, công nghệ mới liên tục cập nhật, việc không ngừng học tập, cập nhật kiến thức để bắt kịp với thay đổi là nhu cầu cần thiết. Là những người lao động ưu tú của ngành, dù đã đạt nhiều thành tích cao trong nghiên cứu, cho ra đời nhiều sáng kiến được áp dụng rộng rãi nhưng nhóm tác giả chưa bao giờ bằng lòng với thành tích đạt được. Ở họ luôn có sự say mê trong công việc, khát khao cống hiến và tinh thần tự học nâng cao nghiệp vụ chuyên môn để đáp ứng cho nhu cầu công việc, áp dụng khoa học công nghệ vào quá trình quản lý, sản xuất.