Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Công ước chống tra tấn đề cập đến những trách nhiệm cụ thể của các quốc gia

Phương Nguyên
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Công ước Chống tra tấn gồm Lời nói đầu và 33 điều, được chia thành 3 phần...

Phần I: từ Điều 1 đến Điều 16 quy định về khái niệm “tra tấn” và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Công ước trong việc ngăn chặn và xử lý các hành vi tra tấn. Bên cạnh việc đưa ra khái niệm “tra tấn” cụ thể và yêu cầu các quốc gia thành viên phải công nhận khái niệm này, Công ước chống tra tấn cũng đề cập đến những trách nhiệm cụ thể của các quốc gia trong việc phòng chống tội ác tra tấn khi quốc gia đó tham gia Công ước này như sau:

 Ảnh minh hoạ

Hình sự hóa hành vi tra tấn, quy định những hình phạt thích đáng với hành vi tra tấn (Điều 4); Điều tra, truy tố và xét xử nhanh chóng, hiệu quả những hành vi tra tấn trong các hoàn cảnh khác nhau (các Điều 7, 8, 9, 12); Phối hợp, hỗ trợ các quốc gia khác trong việc dẫn độ và xét xử tội phạm (Điều 7, 8, 9); Không trục xuất, trả về, dẫn độ một người đến những quốc gia khác mà có lý do tin chắc là người đó có thể bị tra tấn (Điều 3); Giáo dục, tuyên truyền về cấm tra tấn, bao gồm việc đưa vấn đề cấm tra tấn vào các luật lệ về chức năng, nhiệm vụ của các đối tượng có liên quan như cán bộ thực thi pháp luật, nhân viên dân sự, quân sự, y tế, công chức... (Điều 10); Rà soát, giám sát và kiểm tra việc thực hiện các luật lệ có liên quan và các cơ sở giam giữ để bảo đảm hành vi tra tấn không xảy ra (Điều 11); Bảo đảm các quyền tố tụng của bị can, bị cáo, các quyền khiếu nại, tố cáo và quyền được bồi thường của nạn nhân tra tấn, quyền được bảo vệ của nhân chứng và nạn nhân (các Điều 13, 14); Không sử dụng lời khai lấy được từ sự tra tấn làm chứng cứ trong mọi giai đoạn tố tụng (Điều 15).

Phần II: từ Điều 17 đến Điều 24 quy định về việc báo cáo, giám sát Công ước và các bước do các bên tiến hành để thực hiện Công ước: Thiết lập Ủy ban chống tra tấn (Điều 17); Trao quyền cho Ủy ban để điều tra các cáo buộc tra tấn có hệ thống (Điều 20); Thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp tùy chọn giữa các bên (Điều 21); Cho phép các bên công nhận thẩm quyền của Ủy ban được nghe các khiếu nại, khiếu tố của các cá nhân về việc vi phạm Công ước của một bên ký kết (Điều 22).

Phần III: từ Điều 25 đến Điều 33 quy định về hiệu lực, thủ tục gia nhập, bảo lưu, rút lui, thủ tục sửa đổi, bổ sung và giải quyết tranh chấp; cũng bao gồm một cơ chế trọng tài tùy chọn (không bắt buộc) đối với tranh chấp giữa các bên (Điều 30).