Xin Đại sứ cho biết tầm quan trọng và ý nghĩa chuyến thăm Việt Nam lần này của Tổng thống Nga Vladimir Putin đối với mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Nga cũng như trong việc hiện thực hóa Tuyên bố chung về Tầm nhìn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai quốc gia đến 2030?
Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Liên bang Nga V. V. Putin sẽ thăm chính thức Việt Nam từ ngày 19/6 đến 20/6/2024. Chuyến thăm có ý nghĩa hết sức quan trọng, đó là làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga trên tất cả các lĩnh vực và nâng tầm lên trong tình hình mới, đặc biệt trong bối cảnh hai nước đang nỗ lực hiện thực hóa Tuyên bố chung về Tầm nhìn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện đến năm 2030. Chuyến thăm này không chỉ là một sự kiện ngoại giao quan trọng mà còn thể hiện sự coi trọng và cam kết của Nga đối với mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam. Đồng thời, chuyến thăm cũng thể hiện Việt Nam tích cực thực hiện đường lối đối ngoại theo tinh thần độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, và đóng góp vào hòa bình, ổn định trên thế giới. Điều này góp phần củng cố tình hữu nghị và sự tin cậy lẫn nhau, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện của quan hệ hai nước trong tương lai.
Trong khuôn khổ chuyến thăm, lãnh đạo hai nước sẽ thảo luận và định hướng cho quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện đến năm 2030, xác định rõ hơn các lĩnh vực hợp tác trọng điểm, từ kinh tế, thương mại, quốc phòng an ninh, năng lượng, khoa học công nghệ đến giáo dục, văn hóa ngoại giao nhân dân. Các mục tiêu dài hạn và kế hoạch hành động cụ thể sẽ được đề ra, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả của quan hệ song phương trong tương lai. Ngoài ra, chuyến thăm này còn là cơ hội để cả hai bên ký kết và triển khai các thỏa thuận hợp tác mới, tạo động lực thúc đẩy quan hệ song phương.
Việc Tổng thống Putin thăm Việt Nam còn gửi đi một thông điệp mạnh mẽ về sự tôn trọng lẫn nhau giữa hai quốc gia. Đây là một biểu hiện rõ ràng của tình hữu nghị và sự đoàn kết, qua đó góp phần nâng cao vị thế của cả hai nước trên trường quốc tế, vì lợi ích chung của cả hai dân tộc và vì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Đây cũng là dịp để hai nước trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm, đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Năm 2024 đánh dấu 30 năm hai bên ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam-Nga và 20 năm hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, xin Đại sứ đánh giá những điểm nhấn trong quan hệ song phương thời gian qua.
Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 30/1/1950 đến nay, mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô trước đây và Nga hiện nay luôn vững bền theo năm tháng và ngày càng phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực.
Quan hệ chính trị có độ tin cậy cao, thông qua các hình thức và cơ chế hợp tác chính trị đa dạng như trao đổi đoàn các cấp, đặc biệt cấp cao thường xuyên, giúp Lãnh đạo hai nước trao đổi thông tin và kịp thời chỉ đạo phát triển quan hệ song phương. Hai bên đã thiết lập và triển khai hiệu quả nhiều cơ chế như họp Ủy ban Liên chính phủ, Đối thoại chiến lược, Tham vấn chính trị thường niên góp phần tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, tạo cơ sở thúc đẩy hợp tác mọi mặt giữa hai nước. Việt Nam và Nga luôn ủng hộ và hợp tác chặt chẽ trong các tổ chức quốc tế và khu vực như Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC, ARF...
Hợp tác kinh tế - thương mại phát triển tích cực, có những giai đoạn kim ngạch song phương tăng từ 10-15%/ năm, là kết quả của việc ký kết Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á – Âu. Mặc dù chịu tác động của tình hình bất ổn của thế giới và khu vực, kim ngạch thương mại năm 2023 vẫn đạt hơn 3,6 tỷ USD. Về đầu tư, Nga đã có gần 200 dự án tại Việt Nam với tổng số vốn gần 1 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam tại Nga tăng mạnh, từ chỗ chỉ khoảng 100 triệu vào đầu những năm 2000 đã lên mức 3 tỷ USD vào năm 2023. Điểm nhấn quan trọng trong hợp tác kinh tế giữa hai nước là sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực năng lượng, dầu khí. Hai bên đã hợp tác tốt và hiệu quả trong tìm kiếm, thăm dò dầu khí không chỉ ở thềm lục địa Việt Nam mà cả ở lãnh thổ Liên bang Nga với các dự án lớn. Ngoài liên doanh Vietsovpetro là lá cờ đầu trong hợp tác dầu khí, hai bên đã có thêm những liên doanh khác đang hoạt động tích cực ở cả hai nước.
Hợp tác song phương trong các lĩnh vực như khoa học công nghệ, văn hóa, giáo dục, du lịch, địa phương... ngày càng được mở rộng, trong đó hợp tác khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo giữa hai nước được đẩy mạnh và nâng lên tầm chiến lược. Nga đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho nhiều sinh viên Việt Nam nhờ vào các chương trình học bổng và đào tạo chất lượng cao với số lượng hàng nghìn sinh viên theo học tại Nga mỗi năm, trong đó có các ngành công nghiệp chủ chốt như năng lượng, dầu khí, khoa học cơ bản.
Theo Đại sứ, yếu tố văn hóa có ý nghĩa thế nào đối với tình hữu nghị Việt – Nga? Hợp tác văn hóa đã và đang được thúc đẩy thế nào trong dòng chảy hợp tác chung giữa hai nước, thưa Đại sứ?
Trong suốt chiều dài lịch sử hợp tác, các hoạt động giao lưu văn hóa đã đóng góp không nhỏ vào việc tạo dựng mối quan hệ bền chặt và gắn kết giữa Nhân dân hai nước. Văn hóa giúp chúng ta hiểu rõ hơn về phong tục, tập quán và lối sống của nhau. Thông qua các hoạt động như lễ hội văn hóa, triển lãm và các hoạt động nghệ thuật, âm nhạc, nhân dân hai nước có cơ hội tiếp cận, khám phá và trân trọng những di sản văn hóa quý báu của nhau. Điều này không chỉ làm sâu sắc thêm tình hữu nghị giữa hai dân tộc mà còn góp phần xây dựng một nền tảng vững chắc cho mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Nga.
Trong những năm qua, hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Nga đã được thúc đẩy mạnh mẽ. Nhiều chương trình giao lưu văn hóa, đã được tổ chức thường xuyên, tạo điều kiện cho các nghệ sĩ, nhà nghiên cứu và người dân hai nước gặp gỡ, trao đổi và học hỏi lẫn nhau.
Nga là thị trường với sức mua lớn thứ tư thế giới. Thời gian qua, dù đứng trước không ít khó khăn nhưng với quyết tâm và nỗ lực của doanh nghiệp hai nước, kim ngạch thương mại năm 2023 vẫn đạt con số ấn tượng. Đại sứ đánh giá như thế nào về tiềm năng hợp tác kinh tế giữa hai nước thời gian tới, ở các những lĩnh vực hợp tác tiềm năng mới?
Năm 2012, Việt Nam và Liên bang Nga đã xác lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Năm 2015, Việt Nam và Liên minh kinh tế Á - Âu đã ký Hiệp định thương mại tự do (VN-EAEU FTA), tạo thuận lợi cho phát triển hợp tác kinh tế - thương mại, đầu tư giữa hai nước. Sau khi Hiệp định VN-EAEU FTA có hiệu lực từ tháng 10 năm 2016, thương mại song phương Việt Nam - Nga phát triển nhanh, đạt kim ngạch 5,5 tỷ USD vào năm 2021, tăng 90% so với năm 2016.
Tuy nhiên, từ sau khi nổ ra xung đột Nga - Ukraine, tình hình chính trị - kinh tế trên thế giới diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng tiêu cực tới hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước. Cùng với sự nỗ lực chung của các cơ quan chức năng và của cộng đồng doanh nghiệp hai nước, các khó khăn về vận tải, thanh toán… từng bước được tháo gỡ, hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga đã có sự hồi phục rõ rệt. Năm 2023, kim ngạch thương mại hai chiều tăng 3,6% so với năm 2022. Trong 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước đạt xấp xỉ 2 tỷ USD, tăng 52% so với cùng kỳ năm 2023. Nhiều nhóm hàng thế mạnh của Việt Nam như nông sản, thủy sản, may mặc, thiết bị máy móc tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao sang thị trường Nga. Ngược lại, ta cũng tăng nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu như than đá, phân bón, hóa chất, thực phẩm… phục vụ sản xuất, kinh doanh đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
Về đầu tư, tính đến hết tháng 5 năm 2024 Liên bang Nga có 186 dự án tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 1 tỷ USD; trong khi đó Việt Nam có khoảng 25 dự án đầu tư tại Nga với tổng vốn đầu tư khoảng 3 tỷ USD. Hợp tác trong lĩnh vực truyền thống là dầu khí tiếp tục được duy trì và củng cố, với hai doanh nghiệp tiêu biểu là Vietsovpetro và Rusvietpetro tiếp tục hoạt động có hiệu quả. Hợp tác đầu tư trong các lĩnh vực khác như chế biến thực phẩm, sản xuất - lắp ráp ô tô… cũng từng bước phát triển.
Trong thời gian qua, Việt Nam và Nga cũng từng bước nối lại hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác bị gián đoạn từ sau bùng phát đại dịch Covid-19. Từ đầu năm 2024, hai bên đã mở lại tuyến bay thẳng giữa Moskva và Thành phố Hồ Chí Minh với tần suất 03 chuyến/tuần. Hiện nay, Nga và Việt Nam đã nới lỏng các quy định về visa cho công dân của nhau. Từ tháng 8/2023 công dân Việt Nam đã có thể xin visa điện tử vào Nga với quy trình đơn giản, thuận tiện; trong khi đó từ 15/8/2023, du khách Nga có thể lưu trú tại Việt Nam đến 45 ngày miễn visa. Đây là các điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hai nước hồi phục và thúc đẩy hợp tác du lịch - thương mại trong thời gian tới.
Chúng tôi đề nghị các doanh nghiệp hai nước tăng cường hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại, tham gia các hội chợ triển lãm chuyên ngành tại Nga và Việt Nam tìm hiểu thị trường, tìm khách hàng, thiết lập quan hệ kinh doanh - đầu tư.
Qua nhiều thế hệ, người dân Việt Nam và người dân Liên Xô trước đây và Nga hiện nay luôn dành cho nhau những tình cảm đặc biệt, hiếm có. Giao lưu Nhân dân, vì vậy, cần phải được thúc đẩy như thế nào để “giữ lửa” tình hữu nghị Việt – Nga?
Quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô trước đây và Nga ngày nay luôn không ngừng được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước củng cố và vun đắp.
Để “giữ lửa” tình hữu nghị Việt – Nga, việc thúc đẩy giao lưu Nhân dân là vô cùng cần thiết. Trước hết, cần đẩy mạnh các chương trình trao đổi và giao lưu văn hóa. Các hoạt động giao lưu giữa các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ hai nước, cần được tổ chức thường xuyên và quy mô hơn, tạo ra không gian để các thế hệ người dân hai nước gặp gỡ, giao lưu, học hỏi và hiểu biết lẫn nhau, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tình hữu nghị Việt – Nga, góp phần củng cố và làm sâu sắc hơn tình hữu nghị giữa hai quốc gia, hai dân tộc. Về hợp tác giáo dục-đào tạo, trước đây, Liên Xô đã giúp Việt Nam đào tạo gần 40 nghìn cán bộ và chuyên gia giỏi thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Hiện nay, Nga tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực. Từ năm 2019, Nga đã tăng số học bổng cho Việt Nam lên khoảng 1000 suất/năm. Hiện có khoảng hơn 5.000 sinh viên Việt Nam du học tại Nga. Bên cạnh đó, việc tổ chức các hoạt động giao lưu Nhân dân thông qua các hội thảo, diễn đàn, và các chương trình hợp tác xã hội cũng rất cần thiết.
Theo Đại sứ, cần làm gì để phát huy và thúc đẩy hợp tác trong những lĩnh vực như giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ?
Trước tiên, cần khẳng định hợp tác khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo giữa hai nước thời gian qua là rất hiệu quả, ngày càng đa dạng, thực chất và là những cơ sở quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
Về hợp tác khoa học - công nghệ, có thể thấy rằng lĩnh vực này không chỉ góp phần phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, mà còn tạo điều kiện cải thiện năng lực và hiệu quả hoạt động của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, hình thành mạng lưới quan hệ hợp tác đối tác tin cậy giữa các cơ quan khoa học và công nghệ hai nước.
Để phát triển hợp tác khoa học - công nghệ với Liên bang Nga thời gian tới, hai nên cần quan tâm tâm triển khai các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu chung trong các lĩnh vực Nga có thế mạnh, Việt Nam có nhu cầu như: khoa học sự sống, công nghệ năng lượng, công nghệ vũ trụ, sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường; nghiên cứu cơ bản, Fintech, trí tuệ nhân tạo, lĩnh vực y sinh...
Hai nước cần có chính sách và dành nguồn lực tài chính thích đáng đầu tư cho các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu chung, đồng thời, tăng cường trao đổi đoàn, trao đổi cán bộ khoa học, kết nối mạng lưới hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu, đào tạo…
Đối với việc đào tạo nguồn nhân lực tại Liên bang Nga diện Hiệp định, chúng ta cần ưu tiên cử sinh viên đi đào tạo các khối ngành kỹ thuật, khoa học ứng dụng, công nghệ tài chính; phối hợp giữa các bộ liên quan để tăng số lượng học bổng cho các ngành Y và các ngành đào tạo trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. Hằng năm, Chính phủ Nga cấp 1000 suất học bổng cho công dân Việt Nam sang học tập tại Nga. Để thu hút công dân Việt Nam sang học tập tại Nga, cần thúc đẩy công tác tuyên truyền về nền giáo dục và các trường đại học Nga tại các địa phương ở Việt Nam, mở rộng đối tượng tuyển sinh nhằm tăng cơ hội nhận học bổng cho học sinh Việt Nam trên toàn quốc.
Trân trọng cảm ơn Đại sứ!