Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Quốc hội nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội

Như Hương-Công Thọ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Sáng ngày 26/5, thực hiện chương trình Kỳ họp thứ 9, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng nêu rõ: Tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019), Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội (sau đây gọi là dự án Luật) và quyết định lùi thời điểm thông qua dự thảo Luật này sang kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2020). Sau kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với cơ quan soạn thảo và các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH), ý kiến các Đoàn ĐBQH, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật. UBTVQH đã có Báo cáo số 531/BC-UBTVQH14 ngày 19/5/2020 gửi đến các ĐBQH. UBTVQH xin kính trình Quốc hội Báo cáo tóm tắt giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật này như sau:
Về các nội dung tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội: So với dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, dự thảo Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý 12 nội dung tại 14 điều, khoản của Luật Tổ chức Quốc hội, tập trung vào các nội dung sau: (1) tiêu chuẩn một quốc tịch đối với ĐBQH; (2) tăng tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách lên ít nhất là 40% tổng số ĐBQH; (3) việc quyết định số lượng và phê chuẩn ĐBQH hoạt động chuyên trách tại Đoàn ĐBQH; (4) công tác quản lý cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách; (5) việc bảo đảm kinh phí hoạt động của Đoàn ĐBQH và bộ máy tham mưu, giúp việc Đoàn ĐBQH; (6) việc tổ chức Hội nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách; (7) không quy định hình thức văn bản kết luận của UBTVQH trong Luật; (8) đổi tên 02 Ủy ban của Quốc hội; (9) không quy định số lượng cấp phó cụ thể tại Hội đồng và từng Ủy ban; (10) giữ chức danh Ủy viên Thường trực, Ủy viên Chuyên trách tại Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội như Luật hiện hành nhưng mở rộng cơ cấu Thường trực Hội đồng, Thường trực Ủy ban bao gồm cả Ủy viên Chuyên trách; (11) bổ sung trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc và Ủy ban của Quốc hội trong việc tham gia thẩm tra và việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; (12) làm rõ hơn trách nhiệm của thành viên Hội đồng, thành viên Ủy ban trong việc tham dự phiên họp toàn thể của Hội đồng, Ủy ban.
 Các  đại biểu Quốc hội nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.
Về phạm vi sửa đổi, bổ sung của dự thảo Luật: Tổng hợp ý kiến ĐBQH tại kỳ họp thứ 8 và ý kiến đề xuất cụ thể của các cơ quan, tổ chức, các Đoàn ĐBQH cho thấy, một số ý kiến cho rằng phạm vi sửa đổi, bổ sung như dự thảo Luật còn hẹp, đề nghị nên sửa đổi toàn diện và trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10. UBTVQH thấy rằng, Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành mới được thực hiện hơn 04 năm, về cơ bản đang phát huy hiệu quả. Qua nghiên cứu các ý kiến của ĐBQH, có một số nội dung có liên quan trực tiếp đến quy định của Hiến pháp năm 2013 nên cần có thời gian nghiên cứu thấu đáo; một số vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật khác hoặc được quy định trong Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của UBTVQH hay đề án, văn bản khác.
Bên cạnh đó, cũng có những nội dung đề xuất nhưng qua thảo luận ý kiến còn rất khác nhau và chưa tìm được phương án xử lý có tính thuyết phục cao. Do đó, sau khi cân nhắc kỹ từng nội dung, UBTVQH tiếp tục xin phép Quốc hội tại kỳ họp này chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung một số nội dung đã có sự đồng thuận, thống nhất cao trong Luật Tổ chức Quốc hội nhằm kịp thời thể chế hóa nghị quyết của Đảng và trong phạm vi khuôn khổ quy định của Hiến pháp để có thể thực hiện được ngay, bảo đảm tính ổn định của Luật và của công tác cán bộ, tổ chức bộ máy nhà nước; còn các nội dung khác sẽ trình Quốc hội xem xét vào thời điểm thích hợp khi đã có sự nghiên cứu, chuẩn bị đầy đủ, kỹ lưỡng.
Về tiêu chuẩn đối với ĐBQH (Điều 22): Qua thảo luận, một số ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn ĐBQH. Bên cạnh đó, ĐBQH hoạt động chuyên trách ở trung ương, ở địa phương còn phải có thêm một số tiêu chuẩn riêng để làm cơ sở cho công tác bố trí cán bộ và theo dõi, đánh giá trong quá trình làm nhiệm vụ đại biểu.
UBTVQH thấy rằng việc đặt ra các yêu cầu cao hơn đối với ĐBQH nói chung và ĐBQH hoạt động chuyên trách nói riêng là nhu cầu chính đáng và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng của ĐBQH, qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Đây cũng là quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình lựa chọn, giới thiệu cán bộ ứng cử ĐBQH trong các nhiệm kỳ qua. Bên cạnh các tiêu chuẩn chung của ĐBQH đã được Luật Tổ chức Quốc hội quy định, trong các văn bản chỉ đạo của Đảng còn đề ra nhiều tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể (như về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, lĩnh vực chuyên môn, vị trí công tác, kinh nghiệm, uy tín, độ tuổi...) với quy trình đề cử, giới thiệu chặt chẽ hơn nhằm phát hiện, lựa chọn được những cán bộ xứng đáng, có năng lực, phẩm chất phù hợp để giới thiệu ứng cử ĐBQH làm cơ sở cho cử tri xem xét, đánh giá, bầu chọn làm người đại diện cho mình tại Quốc hội.
UBTVQH nhận thấy các tiêu chuẩn của ĐBQH quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành đã thể hiện đầy đủ các năng lực, phẩm chất mà người ĐBQH phải có, cụ thể hóa quyền ứng cử ĐBQH đã được Hiến pháp quy định để áp dụng chung cho cả ĐBQH là người do các cơ quan, tổ chức, do Đảng giới thiệu và ĐBQH là người ngoài Đảng, người tự ứng cử. Do đó, xin phép Quốc hội cho giữ các nội dung này và không bổ sung các tiêu chuẩn trong Đảng làm tiêu chuẩn chung cho các ĐBQH. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH để cụ thể hóa trong Đề án bầu cử ĐBQH khóa XV cũng như trong các quy định về tiêu chuẩn cán bộ, đánh giá cán bộ phù hợp với từng nhóm đối tượng (ĐBQH hoạt động chuyên trách, ĐBQH kiêm nhiệm, ĐBQH tái cử...) nhằm tạo điều kiện cho cử tri lựa chọn, bầu ra được những đại biểu thực sự xứng đáng làm người đại diện cho mình tại Quốc hội.
 Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.
Về công tác quản lý cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách (Điều 43 và Điều 54): Có ý kiến đề nghị làm rõ thẩm quyền phân loại, đánh giá đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương; làm rõ ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương là do trung ương hay địa phương quản lý; cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cán bộ ở địa phương và trung ương để bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung liên quan đến công tác cán bộ đối với nhóm đối tượng này.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến ĐBQH tại kỳ họp thứ 8, trong quá trình nghiên cứu chỉnh lý dự thảo Luật, các cơ quan đã đề xuất luật hóa quy định liên quan đến công tác quản lý cán bộ, đánh giá hoạt động đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách tại Nghị quyết số 353/2017/UBTVQH14 của UBTVQH. Tuy nhiên, qua thảo luận, một số ý kiến cho rằng, quy định nêu trên vẫn chưa thật đầy đủ, chưa đủ cụ thể để có thể thực hiện ngay và một số nội dung chưa hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, có thể gây chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cấp trong công tác quản lý cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương.
UBTVQH thấy rằng, các ý kiến nêu trên là có cơ sở. Công tác quản lý cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương bao gồm nhiều nội dung và có tính đặc thù, đòi hỏi phải có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ ở trung ương và địa phương, đặc biệt là trong việc đánh giá hoạt động, thi đua, khen thưởng, điều động, luân chuyển... đối với ĐBQH. Vì vậy, UBTVQH xin phép được tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH theo hướng quy định trong Luật thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý công tác cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách của địa phương mình (khoản 3a Điều 43); đồng thời giao UBTVQH quy định về việc thực hiện công tác cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách, việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu, chế độ, chính sách và các điều kiện bảo đảm khác đối với ĐBQH và ĐBQH hoạt động chuyên trách (khoản 1 Điều 54) để phù hợp với phạm vi phân cấp, gắn với trách nhiệm của chính quyền địa phương và tình hình thực tế trong từng giai đoạn.
Về Đoàn đại biểu Quốc hội: Nhiều ý kiến ĐBQH đề nghị làm rõ địa vị pháp lý, vai trò của Đoàn ĐBQH trong hệ thống chính trị ở địa phương. Theo đó, đề nghị xác định Đoàn ĐBQH là cơ quan của Quốc hội, là cánh tay nối dài của Quốc hội ở địa phương, độc lập tương đối với địa phương. UBTVQH thấy rằng, vấn đề địa vị pháp lý và vai trò của Đoàn ĐBQH luôn được các vị ĐBQH các khóa quan tâm, thảo luận và nêu nhiều phương án tại mỗi lần sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội.
Thực hiện quy định của Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành, Đoàn ĐBQH có Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn, trong đó có ít nhất 01 ĐBQH hoạt động chuyên trách tại địa phương; được bố trí trụ sở làm việc, có bộ máy giúp việc và được cấp ngân sách đầy đủ để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do luật định. Với các quy định này, các Đoàn ĐBQH đã và đang phát huy vai trò và đạt được nhiều kết quả quan trọng, hỗ trợ tích cực cho ĐBQH thực hiện các nhiệm vụ của đại biểu dân cử. Đoàn ĐBQH là một hình thức tổ chức có tính đặc thù trong Quốc hội Việt Nam phù hợp với điều kiện phần lớn các ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm. Vai trò của Đoàn ĐBQH vừa là tổ chức, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các ĐBQH thực hiện nhiệm vụ đại biểu tại địa phương, vừa đồng thời giúp duy trì mối quan hệ gắn kết giữa Quốc hội với địa phương, là nơi tập hợp kiến nghị, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cả chính quyền và cử tri địa phương đến với Quốc hội. Do đó, Đoàn ĐBQH cần gắn bó chặt chẽ với chính quyền địa phương song Đoàn không độc lập hoàn toàn cũng như không tham gia trực tiếp vào các công việc của chính quyền địa phương vì mỗi cấp chính quyền có nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi hoạt động khác nhau. Vì vậy, xin Quốc hội cho giữ các quy định về địa vị pháp lý nhưng có điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn ĐBQH liên quan đến bộ máy giúp việc như trong dự thảo Luật.
Về bộ máy giúp việc của Đoàn ĐBQH (Điều 43): Hiện Chính phủ đã có Báo cáo số 232/BC-CP ngày 18/5/2020 tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 của UBTVQH về thí điểm hợp nhất Văn phòng Đoàn ĐBQH, Văn phòng HĐND và Văn phòng UBND tại 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo Báo cáo tổng kết, “đa số địa phương triển khai thực hiện thí điểm kiến nghị chỉ nên thực hiện hợp nhất Văn phòng Đoàn ĐBQH với Văn phòng HĐND cấp tỉnh và giữ nguyên Văn phòng UBND cấp tỉnh”.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của ĐBQH, đề nghị Quốc hội cho phép chỉ quy định khái quát trong Luật Tổ chức Quốc hội về bộ máy giúp việc của Đoàn ĐBQH như thể hiện tại khoản 4 Điều 43 và giao Chính phủ quy định cụ thể bởi sau khi tổ chức lại thì cơ quan giúp việc chung sẽ có vị trí tương đương cấp Sở và thuộc bộ máy của chính quyền địa phương. Trong quá trình xây dựng quy định và mô hình của cơ quan giúp việc này, đề nghị Chính phủ đặc biệt quan tâm đến việc bảo đảm công tác chỉ đạo, điều hành của Đoàn ĐBQH đối với cơ quan tham mưu, giúp việc chung và bộ máy trực tiếp giúp việc cho Đoàn ĐBQH để bảo đảm hiệu quả hoạt động của Đoàn ĐBQH.
Về phạm vi lĩnh vực phụ trách của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội: UBTVQH thấy rằng, hiện lĩnh vực, phạm vi hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đang được thực hiện tương đối ổn định, không có vướng mắc lớn; đối với một số nội dung liên ngành cần có sự phối hợp của nhiều cơ quan thì UBTVQH đều kịp thời phân công, điều hòa và có cơ chế để các cơ quan phối hợp nhịp nhàng. Vì vậy, đa số ý kiến UBTVQH đề nghị cho giữ phạm vi lĩnh vực phụ trách của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội như quy định trong Luật hiện hành. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị cân nhắc chuyển lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng từ Ủy ban Kinh tế sang Ủy ban Tài chính, Ngân sách để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khoa học trong việc quản lý chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Do còn có ý kiến khác nhau, UBTVQH đề nghị các vị ĐBQH tiếp tục thảo luận, cho thêm ý kiến về vấn đề này.
Về việc chuyển các Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội: UBTVQH nhận thấy, ý kiến của ĐBQH và các Đoàn ĐBQH về vấn đề này vẫn còn rất khác nhau, chưa đạt được sự đồng thuận, thống nhất cao. Trong bối cảnh hiện nay, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đang đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW về sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả thì chưa phải là thời điểm thích hợp để chuyển các Ban thành cơ quan thuộc Quốc hội. Do đó, đề nghị Quốc hội cho tiếp tục giữ Ban Công tác đại biểu và Ban Dân nguyện là cơ quan thuộc UBTVQH như hiện nay. Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động của các Ban, UBTVQH sẽ xem xét, quy định bổ sung các chế độ, chính sách phù hợp hơn đối với đội ngũ cán bộ của các cơ quan này.
Ngoài những nội dung trên đây, UBTVQH đã chỉ đạo nghiên cứu, rà soát kỹ lưỡng để tiếp thu tối đa và giải trình đầy đủ, thấu đáo ý kiến của các vị ĐBQH và các cơ quan, tổ chức hữu quan trong Báo cáo số 531/BC-UBTVQH14 ngày 19/5/2020 giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật gửi kèm theo hồ sơ. UBTVQH trình Quốc hội xem xét, quyết định./.