Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Thị trường trái phiếu Chính phủ: Thêm giải pháp để tăng quy mô

Nha Trang
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Mặc dù đã có sự phát triển nhanh trong thời gian qua nhưng quy mô thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP) Việt Nam vẫn còn nhỏ so với với nhiều nước trong khu vực. Để thực hiện mục tiêu phát triển thị trường TPCP thành kênh huy động vốn cơ bản cho Ngân sách Nhà nước (NSNN), Bộ Tài chính sẽ tiếp tục có thêm nhiều giải pháp để làm "lớn” thị trường này.

Quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn.
Giảm mạnh tỷ lệ nắm giữ của các ngân hàng
Thông tin từ Bộ Tài chính cho thấy, TPCP ngày càng trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho phát triển của nền kinh tế. Việc cơ cấu lại thị trường về cơ sở nhà đầu tư, về kỳ hạn của danh mục nợ thông qua tập trung phát hành các trái phiếu dài hạn từ 5 - 30 năm, sử dụng các nghiệp vụ tái cơ cấu, mua lại, hoán đổi đã làm cho danh mục nợ TPCP nói riêng và danh mục nợ công nói chung ngày càng được cải thiện theo hướng bền vững hơn.
Tính đến thời điểm tháng 7/2018, dư nợ thị trường trái phiếu Việt Nam là 39,9% GDP năm 2017, dư nợ thị trường TPCP là 29,2% GDP năm 2017. Trong khi đó, tại thời điểm hiện tại, quy mô thị trường trái phiếu của Malaysia là 95% GDP (thị trường TPCP chiếm 49,7% GDP); Singapore là 81,1% GDP (thị trường TPCP chiếm 49,6% GDP), Thái Lan là 73% GDP (thị trường TPCP chiếm 53% GDP), Hàn Quốc là 124,6% GDP (thị trường TPCP chiếm 73,6% GDP), Trung Quốc là 68,8% GDP (thị trường TPCP chiếm 49,8% GDP).
Về cơ cấu nhà đầu tư, cơ sở nhà đầu tư trên thị trường TPCP có sự thay đổi căn bản theo hướng mở rộng, đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, giảm mạnh tỷ lệ nắm giữ của các ngân hàng thương mại. Tính đến cuối tháng 7/2018, tỷ lệ nắm giữ của các ngân hàng thương mại là 51,1% (giảm mạnh so với mức khoảng 79,7% năm 2014), tương đương với các nước trong khu vực là Singapore, Malaysia và thấp hơn Trung Quốc (khoảng 68%), Thái Lan (60%); danh mục còn lại do các nhà đầu tư là Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các công ty bảo hiểm (trong đó chủ yếu là bảo hiểm nhân thọ), Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư khác nắm giữ.
Bộ Tài chính cũng đã tập trung xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển các nhà đầu tư dài hạn, tạo cầu bền vững cho thị trường, bao gồm: Quỹ hưu trí tự nguyện; quỹ bảo hiểm liên kết; khuyến khích hoạt động đầu tư vào trái phiếu của các công ty bảo hiểm, bảo hiểm tiền gửi, nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường TPCP hiện nay không còn lệ thuộc vào các ngân hàng.
Nâng chất và quy mô thị trường
Mặc dù thị trường TPCP Việt Nam có sự phát triển nhanh trong thời gian qua, tuy nhiên so với tiềm năng của nền kinh tế và các nước trong khu vực, quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn còn nhỏ. Vụ trưởng Vụ Tài chính Ngân hàng (Bộ Tài chính) Phan Thị Thu Hiền lý giải nguyên nhân là do sự phát triển của nền kinh tế còn ở mức độ thấp nên nguồn vốn tiết kiệm dài hạn từ các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí bắt buộc còn hạn chế.
Hoạt động của nhà tạo lập thị trường chủ yếu tập trung trên thị trường sơ cấp, vai trò trên thị trường thứ cấp còn hạn chế. Hạ tầng kỹ thuật còn chưa theo kịp với tốc độ phát triển của thị trường thời gian qua.
Về định hướng phát triển thị trường TPCP, năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định phê duyệt lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến 2030 đặt mục tiêu phát triển thị trường TPCP thành kênh huy động vốn cơ bản cho NSNN và trở thành thị trường chuẩn để phát triển thị trường tài chính.
Để thực hiện mục tiêu này, theo đó, đối với thị trường sơ cấp, Bộ Tài chính sẽ phát triển các sản phẩm mới trên thị trường trái phiếu, vận hành TTCK phái sinh, phát hành đều đặn, liên tục các kỳ hạn để đáp ứng nhu cầu nhà đầu tư, tiếp tục tái cơ cấu sản phẩm để tăng tính bền vững của danh mục nợ TPCP.
Đối với phát triển nhà đầu tư, Bộ này yêu cầu Bảo hiểm xã hội tham gia mua, bán TPCP trên thị trường để tiếp tục cơ cấu lại nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu; phát triển cơ sở nhà đầu tư nước ngoài, quan tâm thu hút nhà đầu tư dài hạn; phát triển các quỹ hưu trí tự nguyện, các sản phẩm bảo hiểm hữu trí tự nguyện.