Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Giảm tiêu thụ than trong công nghiệp xi măng

Thành Luân - Khắc Kiên
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Nhiều chuyên gia, nhà quản lý cho rằng, ngoài các chính sách, hành lang pháp lý, cần có quy hoạch thu gom, vận chuyển và lưu trữ nguồn chất thải rắn phù hợp trong điều kiện của Việt Nam.

Nhưng hiện tại, các DN xi măng rất cần sự hỗ trợ về mặt khoa học, kỹ thuật và nguồn nhân lực, vật lực để sớm triển khai áp dụng đồng bộ trong xử lý chất thải rắn.

Nhà máy xi măng Insee. Ảnh: Luân Kiên
Nhà máy xi măng Insee. Ảnh: Luân Kiên

Thân thiện với môi trường

Theo các nhà khoa học, thế giới đang tạo ra khoảng 52,3 tỷ tấn chất thải/năm, có ít nhất 32,5% con số này không được xử lý an toàn. Nếu không có biện pháp giảm xả thải, đến năm 2050, tổng lượng chất thải phát sinh trên toàn cầu dự kiến tăng thêm 70 - 75% so với hiện nay. Chất thải rắn công nghiệp thông thường phát sinh với số lượng cao hơn nhiều so với chất thải rắn sinh hoạt. Các quốc gia có mức thu nhập cao, phát sinh chất thải rắn công nghiệp thông thường lên tới 43,25 kg/người/ngày, trong khi mức trung bình trên thế giới là 14,52 kg/người/ngày.

Tại hội thảo “Đồng xử lý các nhiên liệu thay thế và nguyên liệu thô trong ngành xi măng tại Việt Nam” được tổ chức mới đây, Phó Đại sứ Na Uy tại Việt Nam Mette Møglestue cho biết, Na Uy và Việt Nam, cũng như các thành viên tham gia Thỏa thuận Paris đều cam kết mạnh mẽ trong việc chống biến đổi khí hậu, thực hiện các đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC), nhằm giảm phát thải khí nhà kính (GhG).

“Tôi rất vui khi biết rằng, kết quả nghiên cứu của SINTEF trong việc sử dụng chất thải nhựa không thể tái chế làm nhiên liệu thay thế cho lò nung xi măng đã được chứng minh thành công và có thể được nhân rộng ở Việt Nam” – Phó Đại sứ Na Uy tại Việt Nam Mette Møglestue nhấn mạnh.

Thông qua dự án OPTOCE do Chính phủ Na Uy tài trợ và đang được thực hiện tại 5 quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam sẽ giúp ngành xi măng nâng cao năng lực xử lý chất thải nhựa không thể tái chế và góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam.

TS Kare Helge Karstensen - nhà khoa học của SINTEF, người đứng đầu dự án OPTOCE cho biết, ngành công nghiệp xi măng đang sử dụng khối lượng lớn than và các nguyên liệu thô khác. Tuy nhiên, lĩnh vực này có thể thay thế một phần hoặc toàn bộ lượng nhiên liệu này bằng chất thải nhựa không thể tái chế.

Doanh nghiệp ngóng cơ chế

Theo kết quả nghiên cứu, việc đồng xử lý chất thải nhựa không thể tái chế làm chất thay thế nhiên liệu trong các lò nung xi măng không làm tăng phát thải dioxin trong khi vẫn tuân thủ các giá trị giới hạn quốc tế nghiêm ngặt nhất.

TS Kare Helge Karstense chỉ ra, giải pháp này làm giảm tiêu thụ than trong ngành công nghiệp xi măng, đồng thời giảm nhu cầu xây dựng các lò đốt phát điện đắt tiền (biến chất thải thành năng lượng). Quan trọng hơn, ngành công nghiệp xi măng nói chung có thể đóng một vai trò quan trọng trong giảm lượng phát thải GhG và ngăn chặn chất thải nhựa đổ vào đại dương.

Dù vậy, giải pháp này còn chưa được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam, chỉ có một số ít nhà máy xi măng đang thực hiện. PGS.TS Lương Đức Long - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam (VNCA) cho biết, Việt Nam có 82 lò nung clanhke đang hoạt động, mỗi năm tiêu thụ trên 10 triệu tấn than antraxit.

Hiện nay, tỷ lệ sử dụng nhiên liệu thay thế trong toàn ngành rất thấp. Chính phủ Việt Nam có chủ trương tăng lượng sử dụng nhiên liệu thay thế lên mức 15% từ nay đến 2030 và 30% sau năm 2030. Như vậy, tiềm năng đồng xử lý chất thải, trong đó có nhựa không tái chế được trong lò nung xi măng ở Việt Nam là rất lớn.

Nhận định về vấn đề này, thạc sĩ Luật Quốc tế Lê Xuân Bách cho biết, Công ước Basel năm 2011 mà Việt Nam tham gia đã định nghĩa đồng xử lý là “việc sử dụng chất thải trong quá trình sản xuất vì mục đích thu hồi năng lượng và/hoặc thu hồi nguyên liệu dẫn đến giảm được nguồn nhiên liệu truyền thống và/hoặc nguyên liệu thô bằng việc thay thế”.

"Hội nghị Basel còn định nghĩa thêm, đồng xử lý là một quá trình “có thể giúp thu hồi tài nguyên, tái chế, phục hồi, sử dụng lại trực tiếp hoặc thay thế”. Đây là công nghệ xử lý chất thải an toàn, thân thiện môi trường, là giải pháp bền vững nhất để xử lý chất thải không thể tái chế so với các biện pháp chôn lấp hay thiêu đốt, hóa lý, chỉ sau ngăn chặn, tái sử dụng và tái chế" - thạc sĩ Lê Xuân Bách cho biết.

Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số thách thức như các DN gặp khó khăn về nguồn vốn đầu tư cho đồng xử lý; rất ít đơn vị chuyên thực hiện việc thu gom, xử lý sơ bộ chất thải và cung cấp đến nhà máy xi măng. Bên cạnh đó, một số bất cập về thủ tục pháp lý hoặc thiếu chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các DN xi măng áp dụng phương pháp này cũng như các DN thu gom, sơ chế chất thải trong chuỗi cung ứng liên quan.