Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu

Khang Nhi-Công Thọ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Chiều 20/10, trong chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Quốc hội họp trực tuyến, nghe báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.

Hầu hết các nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế đề ra được triển khai và có kết quả
Thừa ủy quyền của Thủ trướng Chính phủ trình bày Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 đã đề ra 22 mục tiêu cụ thể về cơ cấu lại nền kinh tế đến năm 2020 và 5 nhóm nhiệm vụ.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27 với 16 nhóm nhiệm vụ lớn được cụ thể hóa bằng 108 nhiệm vụ chi tiết. Đến 2020, hầu hết các nhiệm vụ đã được triển khai và có kết quả.
 Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo thẩm tra kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
Đặc biệt, việc hoàn thiện thể chế liên quan đến cơ cấu lại nền kinh tế được thúc đẩy tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện. Giai đoạn 2016 - 2020, khoảng 234 văn bản các loại đã được soạn thảo và ban hành, trong đó đã trình Quốc hội thông qua 26 Luật.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, đến năm 2020, dự kiến 15 trong số 22 mục tiêu được giao tại Nghị quyết số 24 hoàn thành và có khả năng hoàn thành. Trong đó, 5 mục tiêu quan trọng đã hoàn thành vượt xa so với kế hoạch đề ra. Một là, Quy mô nợ công giảm mạnh, từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống khoảng 55% GDP cuối năm 2019. Năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nợ công có thể tăng đến 57-58% GDP, song vẫn thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2016-2020 là không quá 65% GDP. Hai là, Quy mô nợ chính phủ đã giảm mạnh từ 52,7% năm 2016 xuống 48% GDP đến cuối năm 2019, thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu không quá 54%. Ba là, Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm mạnh từ 44% năm 2015 xuống 41,6% năm 2016, và ước năm 2020 còn 34%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu dưới 40%. Bốn là, Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 ước đạt 45,21%, vượt xa so với mục tiêu 30%-35% được đề ra trong Nghị quyết. Năm là, Dư nợ thị trường trái phiếu đến năm 2019 đạt 40,14% vượt xa so với mục tiêu đến năm 2020 đạt 30% GDP.
Trong số 7 mục tiêu có khả năng không hoàn thành, hai mục tiêu về bội chi ngân sách nhà nước và tỷ lệ nợ xấu đều được đánh giá có khả năng hoàn thành vào cuối năm 2019 nhưng do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 nên có thể không hoàn thành trong năm 2020. Mục tiêu về nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công đạt mức chất lượng tiếp cận 04 nước ASEAN phát triển nhất (ASEAN-4) đã bước đầu triển khai thực hiện nhưng do ưu tiên triển khai các mục tiêu cấp bách khác trong cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017 - 2020 nên mục tiêu này sẽ được tập trung triển khai trong giai đoạn 2021 – 2025.
Hai mục tiêu liên quan đến cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) có khả năng không hoàn thành do cả nguyên nhân chủ quan từ trách nhiệm người đứng đầu đến các nguyên nhân khách quan: nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh (như phê duyệt phương án sử dụng đất, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị các quyền sở hữu trí tuệ bao gồm giá trị văn hóa, lịch sử, phần vốn nhà nước,…) trong khi hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện; mục tiêu nhiệm vụ, cơ chế quản lý DNNN chưa rõ ràng; khó khăn trong việc tìm kiếm cổ đông chiến lược…. Mục tiêu về 1 triệu doanh nghiệp mặc dù có khả năng không hoàn thành nhưng đã đạt được tiến bộ đáng ghi nhận trong giai đoạn vừa qua.
Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo kết quả thực hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế về ba trọng tâm gồm cơ cấu lại đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng; về cơ cấu lại ngân sách nhà nước, khu vực công; phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong nước và thu hút hợp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài; hiện đại hóa công tác quy hoạch, cơ cấu ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; hình thành đồng bộ và phát triển các loại thị trường.
Theo đó, cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư của nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội xuống mức phù hợp, tăng tỷ trọng nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước từ 38,9% năm 2016 lên 46% năm 2019; cải thiện dần hiệu quả đầu tư với chỉ số ICOR ước khoảng 6,1 giai đoạn 2016 - 2020, so với 6,3 giai đoạn 2011 - 2015. Cơ cấu lại DNNN được đẩy mạnh và thực chất hơn. Các mục tiêu cơ cấu lại các tổ chức tín dụng đã cơ bản hoàn thành; hệ thống các tổ chức tín dụng đã được củng cố một bước, nâng cao hơn năng lực quản trị; xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng đã được đẩy nhanh thực hiện một cách thực chất, hiệu quả hơn. Cơ cấu lại NSNN đã đạt được những thay đổi tích cực về quy mô, giảm tỷ trọng chi thường xuyên và tăng tỷ trọng chi đầu tư.
Giai đoạn 2016 - 2020, chính sách phát triển kinh tế tư nhân tiếp tục được hoàn thiện, thủ tục hành chính và các điều kiện kinh doanh bất hợp lý gây cản trở được rà soát, cắt bỏ, môi trường kinh doanh được cải thiện. Hệ sinh thái khởi nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo được chú trọng xây dựng. Cơ cấu thu hút FDI được điều chỉnh hợp lý hơn, với tỷ trọng thu hút phát triển công nghiệp ngày càng tăng, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành ngành thu hút đầu tư FDI lớn nhất trong các ngành kinh tế.
Mô hình tăng trưởng có thay đổi nhưng chưa rõ nét
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định Nghị quyết 24 đã được triển khai quyết liệt, mang lại những kết quả thực chất hơn. Có sự chuyển biến mạnh mẽ cả về tư duy và hành động trong công tác xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện chương trình cơ cấu lại nền kinh tế. Một mặt làm thay đổi nhận thức của các cấp, các ngành trong thực hiện chương trình cơ cấu lại nền kinh tế, mặt khác đã truyền cảm hứng, tạo lòng tin cho thị trường. Vì vậy, chương trình cơ cấu lại nền kinh tế đi vào thực chất hơn, tạo chuyển biến tích cực.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho biết, việc triển khai kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 vẫn còn một số hạn chế. Mô hình tăng trưởng có thay đổi nhưng chưa rõ nét. Tốc độ tăng năng suất lao động còn thấp, đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào tăng trưởng năng suất lao động còn thấp. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu chuyển biến chậm.
 Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày báo cáo 
Cùng với đó, khu vực tư nhân trong nước phát triển chưa tương xứng với quy mô và độ mở của nền kinh tế. Mức độ phụ thuộc vào khu vực kinh tế nước ngoài chưa giảm. Chuyển biến cơ cấu nội ngành chưa rõ nét và bền vững. Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, nơi tạo ra giá trị gia tăng thấp. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp trong nước dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp đạt thấp, còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu, linh phụ kiện nhập khẩu. Khu vực dịch vụ chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.
Cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước chậm; hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực DNNN chậm được cải thiện. Hiệu quả đầu tư công chưa cao, giải ngân vốn đầu tư công còn chậm và nhiều vướng mắc. Tiến độ, chất lượng xử lý nợ xấu, các tổ chức tín dụng yếu kém chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế.
Xác định rõ ràng hơn trọng tâm, trọng điểm cơ cấu lại nền kinh tế cho giai đoạn tới
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 cần tiếp tục thực hiện nhằm hoàn thành những mục tiêu, nhiệm vụ của giai đoạn 2016 - 2020 đồng thời bổ sung các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế với bước đi phù hợp trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Theo đó, Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 cần được xây dựng đảm bảo phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ về quan điểm, định hướng và mục tiêu của chiến lược phát triển quốc gia thời kỳ 2021-2030; phù hợp với định hướng phát triển của ngành và lãnh thổ được xác định trong quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021- 2030.
Đồng thời, tập trung nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực thông qua phát triển đồng bộ các loại thị trường kết hợp với tận dụng khai thác cơ hội của công nghệ số. Khuyến khích đổi mới sáng tạo, tích lũy năng lực công nghệ; đồng thời tạo đột phá ở một số lĩnh vực có tiềm năng như công nghệ số.
Xác định rõ ràng hơn các trọng tâm, trọng điểm cơ cấu lại nền kinh tế theo ngành, vùng, nhóm địa phương để tận dụng được lợi thế và tập trung nguồn lực, tạo ra những kết quả rõ nét hơn.
Khắc phục cơ cấu nền kinh tế chia cắt, cát cứ, thiếu kết nối, thiếu bổ sung hợp lý giữa các thành phần, các địa bàn kinh tế; tạo điều kiện và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và chủ động dần nâng cấp vị trí trong chuỗi giá trị. Nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, tăng cường khả năng chống chịu với những cú sốc bên ngoài.
Căn cứ vào kết quả đánh giá thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, những phân tích về bối cảnh quốc tế, trong nước và các định hướng cho giai đoạn 2021-2025 trên, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu rõ, Chính phủ kiến nghị Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục triển khai các nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhất các mục tiêu và nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế cho giai đoạn 2016-2020; thực hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế với bước đi phù hợp song song với các nỗ lực phòng, chống dịch và thúc đẩy phục hồi kinh tế trong bối cảnh đại dịch và xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng cho giai đoạn 2021-2025 trình Quốc hội trong kỳ họp tiếp theo.

Việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế cơ bản đã bám sát yêu cầu của Nghị quyết 24

Cũng trong chiều 20/10, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo thẩm tra kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.

Tại Kỳ họp, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu rõ: Thực hiện phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trên cơ sở Báo cáo của Chính phủ, ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, ý kiến của các thành viên Ủy ban Kinh tế và đại biểu dự Phiên họp toàn thể, Ủy ban Kinh tế báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội như sau:

Việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế cơ bản đã bám sát yêu cầu của Nghị quyết 24 và quan điểm về đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển các ngành, lĩnh vực có liên quan được xác định tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Nghị quyết 24 của Quốc hội đã tạo chuyển biến rõ nét trong hành động của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương để thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là trong việc hoàn thiện thể chế với khoảng 234 văn bản được ban hành, bao trùm hầu hết các ngành, lĩnh vực cơ cấu lại. Nhiều quy định, chính sách đột phá đã được ban hành.

Tuy nhiên, một số quy định vẫn chậm được bổ sung, sửa đổi như: quy định về tiêu chí sắp xếp, lựa chọn và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư công phù hợp với thông lệ quốc tế; cơ chế, tổ chức bộ máy điều phối phát triển vùng; quy định về quản lý, sử dụng nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp… Công tác phối hợp, tính chủ động, quyết liệt của các Bộ, ngành, địa phương trong một số trường hợp còn hạn chế.

Ủy ban Kinh tế thấy rằng, các mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đạt nhiều kết quả tích cực, nhất là trong bối cảnh phải đồng thời giải quyết những tồn tại, hạn chế của giai đoạn trước và tạo tiền đề cho đổi mới mô hình tăng trưởng sau năm 2020, tình hình khu vực, thế giới và dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực từng bước được hoàn thiện, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập. Nhà nước đã thể hiện rõ hơn vai trò trong việc sử dụng các công cụ chính sách và nguồn lực để định hướng, điều tiết quá trình huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực theo cơ chế thị trường thông qua việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, thuận lợi; thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường. Qua đó, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

 Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh.

Tuy vậy, còn 7/22 mục tiêu đã có nhiều cải thiện so với năm 2016 và thời điểm đánh giá giữa kỳ năm 2018 nhưng có khả năng không hoàn thành, làm giảm chất lượng, hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực đầu tư phát triển. Cụ thể: Chất lượng thể chế quản lý đầu tư công còn khoảng cách so với các nước ASEAN-4 và thông lệ quốc tế tốt. Chưa xây dựng được các tiêu chí lượng hóa hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án; tính minh bạch, trách nhiệm giải trình chưa cao.

Các mục tiêu thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo Nghị quyết 24 cơ bản không đạt. Đến tháng 6/2020 chỉ hoàn thành 28% kế hoạch cổ phần hóa theo Danh mục phê duyệt trong giai đoạn 2017-2020 và còn 28 doanh nghiệp phải thực hiện thoái vốn với giá trị lớn. Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng vẫn thấp hơn gần 25% so với mục tiêu đề ra, cơ cấu, chất lượng khu vực doanh nghiệp chậm chuyển biến, chưa có nhiều doanh nghiệp lớn, công nghiệp công nghệ cao, có tầm quốc tế. Năng lực tài chính, trình độ công nghệ, hiệu quả kinh doanh và khả năng kết nối với các doanh nghiệp FDI chưa cao.

Cơ cấu đầu tư công theo ngành, lĩnh vực và vùng còn dàn trải

Một số ngành, lĩnh vực cơ cấu lại theo các nhiệm vụ trọng tâm có chuyển biến tích cực, nhưng kết quả tổng thể chưa thật đồng bộ, có mặt còn chậm, chưa tạo ra chuyển biến rõ nét về hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực. Cụ thể: Việc thực hiện cơ cấu lại 3 trọng tâm đã tạo một số chuyển biến tích cực về hiệu quả phân bổ, sử dụng đầu tư công, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, việc thực hiện còn chậm so với yêu cầu đề ra, làm phân tán, ảnh hưởng tới nguồn lực triển khai cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực khác, cũng như việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển cho giai đoạn tới, nhất là nguồn lực tài chính công. Cơ cấu đầu tư công theo ngành, lĩnh vực và vùng còn dàn trải, không phát huy được vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương trong đầu tư phát triển. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực được giao; doanh nghiệp được cổ phần hóa chậm nâng cao chất lượng quản trị, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Năng lực cạnh tranh của hệ thống các tổ chức tín dụng còn hạn chế, ít các ngân hàng thương mại có quy mô lớn và có khả năng cạnh tranh tầm khu vực. Việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội còn một số tồn tại, vướng mắc.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh khẳng định: Việc thực hiện cơ cấu lại ngân sách nhà nước, khu vực công đạt nhiều kết quả tích cực về quy mô, cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước và huy động vốn vay. Qua đó, góp phần bảo đảm an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực công; tạo điều kiện để mở rộng dư địa thực hiện các nhóm giải pháp tài khóa hỗ trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế. Tuy nhiên, chính sách thu vẫn chậm được điều chỉnh, chưa bao quát hết các nguồn thu và thiếu đồng bộ với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư. Kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách trong một số trường hợp chưa được bảo đảm. Đổi mới hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, mức độ tự chủ tài chính chưa cao. Cơ chế, chính sách thúc đẩy xã hội hóa chưa đủ mạnh, việc chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập còn bất cập, lúng túng.

Khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã có chuyển biến về chất lượng và hiệu quả, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, tham gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Tuy nhiên, mục tiêu tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đến năm 2020 đạt khoảng 50% khó hoàn thành. Việc thu hút và chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, liên kết giữa khu vực FDI với khu vực trong nước thiếu chặt chẽ, hiệu ứng lan tỏa năng suất chưa cao. Nước ta có nguy cơ bị “mắc kẹt” ở những công đoạn khá thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Cơ cấu kinh tế ngành, vùng bước đầu tác động tích cực lên năng suất lao động, nhất là trong khu vực nông nghiệp, từng bước có sự gắn kết trong không gian phát triển hợp lý hơn giữa các ngành, vùng kinh tế. Tuy nhiên, chưa tạo chuyển biến rõ nét về hiệu quả sử dụng nguồn lực của các ngành và vùng kinh tế. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp chưa tạo chuyển biến mạnh về tổ chức sản xuất, vẫn chủ yếu là kinh tế hộ nhỏ lẻ; năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của một số loại nông sản chưa cao. Cơ cấu lại ngành công nghiệp còn chậm, nhất là trong việc phát triển một số ngành công nghiệp ưu tiên như cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ và hình thành các cụm chuyên môn hóa. Cơ cấu lại khu vực dịch vụ chưa tạo chuyển biến rõ nét trong phát triển các ngành có hàm lượng tri thức, khoa học công nghệ cao; hiệu quả hoạt động của hệ thống phân phối và chất lượng phát triển du lịch còn thấp. Liên kết vùng chưa đi vào thực chất, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế đặc thù của từng vùng, địa phương.

Việc phát triển đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất đã đạt kết quả bước đầu, thị trường tài chính được hình thành khá đầy đủ và có sự điều chỉnh cơ cấu hợp lý hơn giữa các phân mảng thị trường. Tuy nhiên, thị trường chưa thực sự trở thành kênh phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội. Thị trường khoa học và công nghệ vẫn chậm phát triển, ít các tổ chức trung gian có uy tín, kinh nghiệm trong hoạt động kết nối cung - cầu. Các thiết chế hỗ trợ phát triển thị trường lao động, quan hệ lao động hiệu quả còn thấp. Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp còn nhiều bất cập, chưa tạo điều kiện tập trung, tích tụ ruộng đất cho sản xuất lớn.

Phải thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế quyết liệt hơn

Giai đoạn 2021-2025, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế đặt ra mạnh mẽ hơn với các nền tảng đột phá về thể chế, kết cấu hạ tầng, khoa học công nghệ và nguồn lực con người. Bối cảnh đó yêu cầu phải thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế quyết liệt hơn nhằm nâng cao hiệu quả huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực theo cơ chế thị trường, “giải phóng” nguồn lực sản xuất của nền kinh tế.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, Ủy ban tán thành việc trình Quốc hội xem xét, thông qua Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 và xin nhấn mạnh một số quan điểm, định hướng, nhiệm vụ chủ yếu về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn tới như sau: Phát triển đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất kết hợp với khai thác hiệu quả thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là trọng tâm của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn tới. Trong đó, cần đổi mới mạnh mẽ về thể chế phát triển thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ; hoàn thiện thể chế đối với các hình thức kinh doanh mới. Đổi mới toàn diện phương thức quản lý nhà nước về kinh tế, cải cách thể chế kinh tế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế số, xây dựng Nhà nước liêm chính, kiến tạo, Chính phủ điện tử, tăng cường kỷ cương, kỷ luật và hiệu lực thực thi pháp luật; giảm thiểu vai trò kinh doanh, đầu tư trực tiếp của Nhà nước. Có lộ trình và giải pháp khả thi để hoàn thành dứt điểm cơ cấu lại đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng trong những năm đầu của giai đoạn 2021-2025 nhằm tập trung nguồn lực thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân và thu hút, sử dụng FDI có chất lượng, hiệu quả; trong đó kinh tế tư nhân là chủ thể quan trọng của quá trình cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực, đổi mới sáng tạo, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ hình thành, phát triển một số doanh nghiệp tư nhân lớn, có tiềm lực mạnh, khả năng cạnh tranh và tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; thúc đẩy kết nối giữa khu vực doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI. Tập trung nguồn lực đầu tư phát triển các ngành và địa bàn kinh tế ưu tiên. Hoàn thiện thể chế liên kết vùng, triển khai tốt công tác quy hoạch nhằm phát huy các tiềm năng, lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương, tăng tính kết nối nội vùng và liên vùng, tạo không gian phát triển mới. Thúc đẩy phát triển đô thị và kinh tế đô thị, phát huy vai trò là đầu tàu trong tăng trưởng, đổi mới sáng tạo của các đô thị lớn. Với Báo cáo tóm tắt thẩm tra đánh giá kết quả thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, Ủy ban Kinh tế báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội./.