Hà Nội có vị trí, vai trò là Thủ đô của cả nước
Về giao thẩm quyền quyết định tổ chức bộ máy tổ chức thuộc UBND quy định ở Điều 9, đại biểu Trần Chí Cường tán thành với việc này, bởi TP Hà Nội có vị trí, vai trò là Thủ đô của cả nước, khối lượng công việc về quản lý, đầu tư phát triển rất lớn, phức tạp, yêu cầu ngày càng cao. Ngoài việc bảo đảm nhiệm vụ của một địa phương cấp tỉnh, Hà Nội còn đảm nhận nhiều nhiệm vụ chính trị đặc biệt, yêu cầu cao hơn về đô thị, môi trường, trật tự, an toàn xã hội, văn hóa, đối ngoại với vai trò là Thủ đô của đất nước.
Đồng thời, với vị trí là đô thị đặc biệt, có tốc độ phát triển nhanh, quy mô kinh tế lớn, hoạt động thương mại, dịch vụ, giao dịch quốc tế, văn hóa, thể thao diễn ra sôi động, đa dạng, có tầm ảnh hưởng lớn, do đó, quy định việc giao quyền chủ động cho thành phố trong quyết định, chịu trách nhiệm bảo đảm điều kiện thực hiện trong việc thành lập, tổ chức lại, giải thể cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính thuộc chính quyền thành phố và cấp huyện để có được tổ chức bộ máy linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu quản lý trong từng giai đoạn là rất cần thiết.
Theo đại biểu Trần Chí Cường, Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) trình Quốc hội kỳ này đã có sự tiếp thu, chỉnh lý tương đối phù hợp, đưa ra các nguyên tắc, điều kiện để thành lập, tổ chức lại các cơ quan theo yêu cầu quản lý của từng giai đoạn theo ý kiến của một số đại biểu Quốc hội. Đồng thời, có sự giới hạn về số lượng khi thành lập thêm tổ chức đối với cấp thành phố không vượt quá 15%, tương đương khoảng 3 cơ quan và đối với cấp huyện thì không vượt quá 10%, tương đương với 1 cơ quan theo khung quy định của Chính phủ.
“Như vậy, một mặt đảm bảo cho thành phố chủ động sắp xếp, bố trí tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn, mặt khác cũng giới hạn không phát sinh việc thành lập quá nhiều cơ quan, đơn vị” - đại biểu Trần Chí Cường nêu quan điểm.
Về cơ cấu tổ chức đại biểu của HĐND TP, quy định tại Điều 9. Dự thảo Luật quy định tăng số lượng đại biểu HĐND TP từ 95 lên 125 đại biểu và tăng tỷ lệ đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách lên ít nhất 25%, tăng số lượng thường trực HĐND lên 11 người và không quá 6 ban; các ban có bộ phận hoạt động chuyên trách.
Theo đại biểu Trần Chí Cường, đề xuất này là có cơ sở phù hợp, qua việc xem xét, đánh giá, dự báo tác động của một số giải pháp cần thiết nhằm nâng cao năng lực, tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động của HĐND.
Trong thời gian tới, khối lượng công việc của HĐND TP sẽ tăng đáng kể, do đó, yêu cầu đặt ra là cơ cấu tổ chức, bộ máy phải đủ mạnh để không ngừng nâng cao năng lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động, nhất là chất lượng giám sát, bảo đảm thực chất và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Việc tăng số lượng đại biểu HĐND giúp mở rộng, tăng tính đại diện, đặc biệt của đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, đội ngũ trí thức, tăng tỷ lệ đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách là giải pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng hoạt động, tính chuyên nghiệp của HĐND TP.
Kiểm soát hoạt động kinh doanh, liên doanh, liên kết
Liên quan quy định về quản lý, khai thác tài sản công, công trình hạ tầng, đại biểu Trần Chí Cường cho rằng, quy định như trong Dự thảo Luật là cần thiết.
Thực tiễn hiện nay, việc sử dụng tài sản công ở các đơn vị sự nghiệp công lập vào hoạt động kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết đang gặp nhiều vướng mắc trong tổ chức thực hiện, do các quy định hiện hành về điều kiện, trình tự, thủ tục rất khó thực hiện cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đơn vị sự nghiệp công lập.
Theo đại biểu, các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất nhưng chức năng, mục đích chính là để cho thuê, kinh doanh, ví dụ như các khu làm việc chung, các văn phòng thử nghiệm, cơ sở thử nghiệm tại Trung tâm Đổi mới sáng tạo, Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… nhưng cơ chế để đưa các tài sản này vào kinh doanh, cho thuê, khai thác tối đa hiệu quả là chưa rõ ràng, cụ thể, chưa tạo sự chủ động cho các đơn vị. Các đơn vị sự nghiệp công lập đã có nhiều phản ánh, kiến nghị về vấn đề này.
Mặt khác, trong bối cảnh thực hiện chủ trương đẩy mạnh việc tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập cần có cơ chế thông thoáng hơn, cho phép các đơn vị được chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc quản lý, khai thác tài sản công, đúng với công năng, mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Đây là quy định cần thiết để giải phóng, khai thác hiệu quả nguồn lực tài sản công nhà nước cũng như huy động sự tham gia của mọi nguồn lực xã hội.
Tuy nhiên, đại biểu Trần Chí Cường cũng cho rằng, cần chú ý đến mặt trái của hoạt động kinh doanh, cho liên doanh, liên kết có thể dẫn đến việc sử dụng sai mục đích, thất thoát, tiêu cực trong khai thác tài sản công. Vì vậy, cần có những quy định mang tính nguyên tắc để kiểm soát vấn đề này.
Theo Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), Điều 9 về HĐND TP Hà Nội, quy định:
1. TP Hà Nội được bầu 125 đại biểu HĐND TP, trong đó có ít nhất là 25% tổng số đại biểu hoạt động chuyên trách.
2. Thường trực HĐND TP Hà Nội hoạt động chuyên trách có không quá 11 thành viên, gồm Chủ tịch HĐND, không quá 03 Phó Chủ tịch HĐND và các Ủy viên. Số lượng thành viên Thường trực HĐND TP do HĐND TP quyết định.
3. HĐND TP Hà Nội được thành lập không quá 06 Ban để tham mưu về các lĩnh vực cụ thể. Số lượng, tên gọi và phạm vi lĩnh vực phụ trách của các Ban do HĐND TP quyết định theo đề nghị của Thường trực HĐND hoặc Thường trực HĐND khóa trước trong trường hợp quyết định tại kỳ họp thứ nhất của HĐND.
Ban của HĐND TP Hà Nội gồm Trưởng ban do HĐND bầu; Phó Trưởng ban và các Ủy viên do Thường trực HĐND TP phê chuẩn. Thường trực HĐND TP quyết định số lượng Phó Trưởng ban bảo đảm bình quân không quá 02 người trên một Ban. Ban có bộ phận hoạt động chuyên trách để giúp giải quyết các công việc thường xuyên trong thời gian Ban không họp.
4. HĐND TP Hà Nội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương, quy định khác của pháp luật có liên quan và các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Quyết định số lượng đại biểu HĐND TP hoạt động chuyên trách; số lượng, tên gọi, phạm vi lĩnh vực phụ tráchcủa các Ban của HĐND;
b) Ban hành Quy chế làm việc của HĐND TP, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND;
c) Quyết định việc thành lập mới, tổ chức lại, giải thể cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND TP; quyết định thay đổi tên gọi, điều chỉnh chức năng của các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính hiện có.
Việc thành lập, tổ chức lại, giải thể cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND TP phải bảo đảm phù hợp yêu cầu về mục tiêu, nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; không chồng chéo với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác; bảo đảm mục tiêu cải cách hành chính nhà nước, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trường hợp thành lập thêm cơ quan, tổ chức thì phải bảo đảm tổng số cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP không vượt quá 15% khung số lượng do Chính phủ quy định;
d) Quy định tiêu chí thành lập, tổ chức các Ban của HĐND quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố. Quy định về việc thành lập mới, tổ chức lại, giải thể cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố trên cơ sở điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính hiện có, bảo đảm không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác và mục tiêu cải cách hành chính nhà nước, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trường hợp thành lập thêm cơ quan, tổ chức thì phải bảo đảm tổng số cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Thành phố không vượt quá 10% khung số lượng do Chính phủ quy định;
đ) Xác định số lượng biên chế cán bộ, công chức, số lượng viên chức làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập do Thành phố quản lý căn cứ vào danh mục vị trí việc làm, quy mô dân số, thực trạng khối lượng công việc, đặc điểm an ninh, chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn và khả năng cân đối ngân sách của Thành phố, bảo đảm tỷ lệ giữa tổng số biên chế so với tổng số dân không vượt mức tỷ lệ trung bình của cả nước trình cấp có thẩm quyền quyết định;
e) Các nhiệm vụ, quyền hạn khác quy định tại Luật này.
5. Thường trực HĐND TP Hà Nội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương, quy định khác của pháp luật có liên quan. Trong thời gian HĐND TP không họp, Thường trực HĐND TP quyết định các nội dung sau đây và báo cáo HĐND TP tại kỳ họp gần nhất:
a) Biện pháp để giải quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn;
b) Điều chỉnh chủ trương đầu tư trong trường hợp cần thiết đối với các dự án đầu tư công nhóm B, nhóm C quy định tại Luật Đầu tư công;
c) Việc hỗ trợ cụ thể theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 35 của Luật này căn cứ vào dự toán ngân sách hằng năm đã được HĐND TP phê duyệt.