Mở rộng phạm vi điều chỉnh
Theo Nghị quyết số 793/NQ-UBTVQH15 ngày 7/6/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng LĐLĐ Việt Nam được phân công là cơ quan chủ trì soạn thảo Dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi). Trên cơ sở kế thừa Luật Công đoàn 2012, Dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi) gồm 6 chương, 36 điều (sửa đổi, bổ sung 32 điều; thêm mới 4 điều), bỏ 1 điều so với Luật Công đoàn 2012.
Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam cho biết, Dự thảo Luật mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với “người làm việc không có quan hệ lao động trên lãnh thổ Việt Nam” để bảo vệ nhóm yếu thế này; đồng thời bổ sung vấn đề gia nhập của “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” vào tổ chức Công đoàn Việt Nam; mối quan hệ phối hợp hoạt động và vấn đề chia sẻ kinh phí công đoàn với tổ chức này.
Ngoài đối tượng theo Luật Công đoàn năm 2012, Dự thảo Luật bổ sung thêm đối tượng áp dụng là tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp (đối với việc gia nhập vào Công đoàn Việt Nam).
Dự thảo Luật sẽ trao quyền chủ động hơn cho tổ chức Công đoàn trong công tác cán bộ (Điều 26) theo hướng: Cơ quan có thẩm quyền quyết định số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách là cán bộ, công chức, viên chức sau khi thống nhất với Tổng LĐLĐ Việt Nam; đồng thời cho phép “Tổng LĐLĐ Việt Nam quyết định số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách là người làm việc theo hợp đồng lao động trong các cơ quan chuyên trách của Công đoàn và Công đoàn cơ sở phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ”.
Về quyền và trách nhiệm của Công đoàn cấp trên đối với nơi chưa có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, Dự thảo Luật đã sửa đổi quy định về quyền và trách nhiệm của Công đoàn cấp trên đối với nơi chưa có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động 2019 và vai trò là tổ chức chính trị - xã hội theo Điều 10 Hiến pháp 2013.
Về nội dung này, có ý kiến cho rằng, Bộ luật Lao động 2019 đã quy định, quyền thương lượng chỉ được thực hiện khi tại doanh nghiệp có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Vì vậy, đề nghị cân nhắc bỏ quy định này để đảm bảo thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật và phù hợp với bối cảnh mới.
Theo ông Nguyễn Đình Khang, ngoài những cơ sở đã nêu trong Tờ trình, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thấy rằng, bên cạnh các quyền đối thoại, thương lượng thì còn rất nhiều quyền và lợi ích hợp pháp khác của người lao động cần được bảo đảm và bảo vệ khi người lao động có yêu cầu. Vì vậy, Tổng LĐLĐ Việt Nam lựa chọn phương án như trong Dự thảo Luật.
Dự thảo Luật cũng bổ sung quyền gia nhập Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp; đề xuất 2 phương án phân chia kinh phí công đoàn cho các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
Thống nhất tiếp tục duy trì nguồn thu kinh phí công đoàn 2%
Trình bày Tờ trình Dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh bày tỏ, Ủy ban Xã hội nhất trí với việc sửa đổi toàn diện dự án Luật và thấy rằng, còn nhiều vấn đề cần thiết khác phải được đặt ra trong quá trình xây dựng dự án Luật Công đoàn (sửa đổi) như: Xây dựng mô hình tổ chức công đoàn theo hướng mở, linh hoạt, tuyển dụng cán bộ công đoàn trưởng thành từ cơ sở, phong trào công nhân, khuyến khích xã hội hóa nguồn lực. Do đó, đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, bổ sung để việc sửa đổi các chính sách trong dự án Luật bảo đảm toàn diện, sâu sắc, bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và đòi hỏi của thực tiễn.
Ủy ban Xã hội ủng hộ và thống nhất với việc tiếp tục duy trì nguồn thu kinh phí công đoàn 2%, điều này phù hợp với Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12/6/2021 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới là “Duy trì nguồn lực hiện có; thu kinh phí công đoàn và khuyến khích xã hội hoá nguồn lực để Công đoàn thực hiện tốt nhiệm vụ được giao”.
Đồng thời, theo cơ quan thẩm tra, đẩy cũng là vấn đề có tính lịch sử, thực tiễn pháp luật của nước ta đã quy định, duy trì từ Luật Công đoàn năm 1957 đến nay đang ổn định và phù hợp với thể chế chính trị của nước ta.
Nguồn kinh phí này giữ vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc bảo đảm nguồn tài chính để Công đoàn Việt Nam - nhất là Công đoàn cơ sở hoạt động, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình; chăm lo phúc lợi xã hội cho người lao động, đặc biệt là chăm lo, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động.
Điều này thể hiện việc đồng hành, phối hợp cùng với doanh nghiệp, người sử dụng lao động để quan tâm chăm lo đời sống, phúc lợi, động viên, khích lệ người lao động gắn bó với đơn vị cũng như thúc đẩy doanh nghiệp, người sử dụng lao động có trách nhiệm hơn đối với người lao động của mình thông qua Công đoàn.
Báo cáo thẩm tra cũng phản ánh ý kiến cho rằng, cần nghiên cứu để điều chỉnh linh hoạt mức đóng kinh phí Công đoàn một cách phù hợp (thậm chí phân loại mức đóng theo số lượng người lao động của doanh nghiệp) để hài hòa. Quy định vừa bảo đảm điều kiện hoạt động cho tổ chức Công đoàn, vừa không tạo gánh nặng cho người lao động, doanh nghiệp; góp phần thúc đẩy đổi mới, nâng cao chất lượng, tinh gọn tổ chức, bộ máy hoạt động Công đoàn.
Cùng với đó, Ủy ban Xã hội đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục cung cấp thông tin, làm rõ một số nội dung: trong tương lai, “kinh phí Công đoàn” có thể còn được phân bổ cho tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Do vậy, cần cung cấp thông tin về tình hình thu, chi, sử dụng 2% kinh phí Công đoàn để Quốc hội có đầy đủ cơ sở xem xét, quyết định...
Dự kiến, Quốc hội sẽ thảo luận tại hội trường về Dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi) vào ngày 18/6.